Về cơ bản,lạm phát cao do một số nguyên nhân. Trong đó một nguyên nhân quan trọng là chiếnlược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu của Việt Nam.

Nhìn tấm gươngcủa các con hổ châu Á trước đây và nhất là Trung Quốc sau này, Việt Nam đã khôngngần ngại mở bung nền kinh tế để tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng từ 60% GDPnăm 1990 lên hơn 150% năm 2010. Giống như những láng giềng châu Á, muốn tốc độtăng trưởng xuất nhập khẩu cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP, Việt Nam phải đẩymạnh đầu tư, vừa mở cửa cho FDI vừa sử dụng tín dụng trong nước.

Tăngtrưởng tín dụng quá cao không chỉ cho đầu tư

Bên cạnh việc tàitrợ cho nhu cầu đầu tư, tín dụng còn cần cho nhu cầu tài trợ tài chính thươngmại (trade finance) đang ngày càng lớn.

Một ước tính chorằng nhu cầu này chiếm khoảng 1/3 tổng tín dụng. Bởi vậy, ngay cả khi lãi suấttăng lên rất cao như hai năm qua tăng trưởng tín dụng nội địa vẫn không thể giảmnhư nhiều nhà kinh tế mong đợi.

Một lý do khác làtín dụng được dùng cho nhu cầu đảo nợ của các nhà đầu tư/dự án bất động sản. Khithị trường đóng băng, những nhà đầu tư bất động sản không thanh lý được cáckhoản đã đầu tư, họ buộc phải đảo nợ để chờ đợi thị trường ấm lại. Do đó, dù lãisuất cao đến thế nào họ vẫn phải vay.

Với những nhà đầutư/dự án lớn, ngân hàng có thể “giúp đỡ” bằng cách cấu trúc lại khoản vay đểkhông làm ảnh hưởng đến bảng cân đối tài sản của khách hàng. Còn với các công ty/kháchhàng nhỏ, cán bộ tín dụng có thể “thu xếp nguồn vốn” với lãi suất vô cùng cao màngay cả lãnh đạo ngân hàng cũng không kiểm soát được.

Tăng trưởng tíndụng quá cao, dù cho nhu cầu nào, đều trực tiếp hoặc gián tiếp dẫn đến lạm phát.

Giá thếgiới tăng trong khi tỷ giá cố định, cấu trúc kinh tế lạc hậu

Lạm phát có nguyên nhân từ cơ cấu tăng trưởng
Tương quan tăng trưởng giữa đầu tư; tín dụng và xuất nhập khẩu trên GDP(Ảnh: SGTT)

Nguyên nhân thứhai của lạm phát cao khi Việt Nam theo đuổi chiến lược tăng trưởng dựa vào xuấtkhẩu là giá nguyên liệu thô thế giới gia tăng.

Với một nền kinhtế có độ mở lớn như Việt Nam, mặt bằng giá thế giới sẽ có ảnh hưởng rất lớn vàogiá trong nước nếu chính sách tiền tệ không chủ động. Một điều đáng tiếc làkhông rõ vì lý do gì cơ quan này đã từ bỏ việc phát hành tín phiếu NHNN sau lầnthử nghiệm đầu năm 2008.

Chính những lý dochủ quan và khách quan này đã làm lạm phát Việt Nam cao hơn hẳn các nước trongkhu vực mặc dù họ chịu cùng một cú sốc giá hàng hoá thế giới gia tăng.

Bên cạnh việc ảnhhưởng trực tiếp vào mặt bằng giá trong nước, giá hàng hoá và năng lượng thế giớicòn có tác động vào lạm phát thông qua cấu trúc của nền kinh tế Việt Nam.

Nhiều doanhnghiệp FDI vào Việt Nam vì muốn tận dụng lợi thế giá điện và xăng dầu rẻ so vớikhu vực. Những công nghệ mà họ đem vào do đó cũng rất hao tốn năng lượng nên tỷtrọng chi phí cho đầu vào này cao.

Điều này cũngđúng với các doanh nghiệp Việt Nam, cho nên tính trung bình lượng điện năng vàxăng dầu cần thiết để tạo ra 1 đôla GDP tại Việt Nam thuộc loại cao nhất thếgiới. Không chỉ có năng lượng, công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam (FDI vànội địa) vẫn thường bị kêu ca không hiện đại và hiệu quả nên nhiều khả năng chiphí cho các đầu vào khác cũng cao, chỉ có chi phí nhân công là thấp.

Cho nên, giánguyên nhiên liệu thế giới tăng mạnh trong mấy năm qua sẽ phản ánh vào giá thànhsản phẩm của Việt Nam nhiều hơn so với các nước khác. Việc thiếu vắng các sảnphẩm và thị trường phái sinh cũng cản trở các doanh nghiệp bảo hiểm bớt rủi rogiá nguyên nhiên liệu đầu vào gia tăng.

Vấn đề cuối cùngliên quan đến lạm phát là “kỳ vọng lạm phát” và đôla hoá/vàng hoá nền kinh tế.Về mặt lý thuyết, lạm phát kỳ vọng có tác động vào lạm phát qua hai kênh.

Thứ nhất, thôngqua việc thiết lập mặt bằng lương (wage setting), nghĩa là nếu người lao độngcho rằng lạm phát sẽ tăng thì họ sẽ yêu cầu giới chủ phải tăng lương và chi phílương cao hơn sẽ phản ánh vào giá sản phẩm đầu ra. Điều này tạo thành một vòngxoáy không có điểm dừng, nhất là nếu kỳ vọng lạm phát cao.

Như đã nói ở trên,tỷ lệ chi phí cho nhân công ở Việt Nam không cao nên nếu lương có tăng do lạmphát kỳ vọng thì ảnh hưởng vào giá đầu ra không chắc đã lớn. Việc 60% lực lượnglao động Việt Nam còn làm việc trong khu vực nông nghiệp càng làm kênh này kémhiệu lực.

Kênh thứ hai làkỳ vọng lạm phát cao sẽ làm lãi suất thực thấp bất chấp lãi suất danh nghĩa cótăng cao.

Việc lãi suấtthực có xu hướng giảm từ năm 1996 và đã có lúc âm hoàn toàn phù hợp với dòng vốnFDI chảy vào Việt Nam và tổng đầu tư gia tăng liên tục. Cũng giống như kênh mặtbằng lương, kênh lãi suất thực này sẽ tạo ra vòng xoáy lạm phát, nghĩa là lạmphát cao dẫn đến kỳ vọng cao làm giảm lãi suất thực và tăng đầu tư, khi tổng đầutư tăng sẽ quay lại gây sức ép lên lạm phát.

Tuy nhiên kênhlãi suất thực này có điểm dừng vì đến một điểm lạm phát đủ cao người dân sẽchuyển tài sản của mình vào vàng và đôla thay vì tiếp tục tài trợ cho các hoạtđộng đầu tư. Lúc này lãi suất danh nghĩa sẽ bị đẩy lên rất cao kéo lãi suất thựclên theo.

Đôla hoá (hoặcvàng hoá) đã trở thành một cơ chế phanh tự động của nền kinh tế, đồng thời nócũng là cơ chế “phòng vệ” duy nhất của người dân đối chọi lại giới doanh nghiệpvà... Nhà nước. Điều này, cũng có nghĩa trợ giúp cho chính sách thắt chặt tiềntệ để chống lạm phát.

Theo TS Lê Hồng Giang
SGTT