2010 là một năm bất ổn về lãi suất với mức độ biến động khôn lường. NHNN chỉ2 lần thay đổi lãi suất cơ bản nhưng các ngân hàng thương mại "loạn" đua lãisuất với nhiều nghịch lý. Sức nóng tỷ giá USD trong năm 2010 cũng không chịuthua kém lãi suất.

Năm 2010 xảy ra nhiều biến động lớn đối với nền kinh tế nói chung và hoạtđộng ngân hàng nói riêng. Bài viết này đề cập đến những bất cập trong điềuhành về lãi suất, tỷ giá và việc tăng vốn điều lệ, ngõ hầu góp phần tìm racách thức điều hành tiền tệ thích hợp hơn trong năm 2010.

Lãi suất giả tạo

Một năm bất ổn về lãi suất với mức độ biến động khôn lường. Ngân hàng Nhà nước (NHNN)chỉ thay đổi lãi suất cơ bản 2 lần (tăng từ 7% lên 8% vào tháng 4/2010 và lên 9%kể từ ngày 5/11/2010) nhưng ngân hàng thương mại thì thay đổi chóng mặt. Ví dụtại BAOVIET Bank, chỉ tính riêng một loại lãi suất cho vay đối với cá nhân, đãthay đổi tới 9 lần và một loại lãi suất tiết kiệm thông thường bằng đồng ViệtNam đã thay đổi tới 13 lần trong năm, chưa kể các lần cộng thêm lãi suất và tặngquà khuyến mại.

Từ tất thảy ngân hàng cho đến người gửi, người vay tiền đều luônluôn “nhấp nhổm” lo lắng với lãi suất không ngừng tăng lên và liên tục căngthẳng.

Tại hai phiên họp hồi tháng 3 và 4/2010, Chính phủ đã chỉ đạo NHNN hạ lãisuất huy động xuống còn không quá 10%, lãi suất cho vay xuống còn không quá 12%/năm.NHNN và Hiệp hội Ngân hàng cũng đã nhiều lần yêu cầu và kêu gọi các ngân hàngđồng thuận hạ lãi suất huy động. Đầu tiên là đồng thuận hạ xuống 10,5%, rồi nớilên 11, 12 và 15%/năm. Nhưng trên thực tế, chưa ngày nào “đồng lòng” thực hiệnđược điều này.

Đặc biệt, ngày 11/12/2010 vừa qua, các ngân hàng đồng loạt chấp nhận hạ lãi suấthuy động từ 16 - 17% xuống không quá 15%/năm, kể cả khuyến mại theo cam kết vớiNHNN và Hiệp hội Ngân hàng trong các cuộc họp ngày 9 và 10/12. Nhưng chỉ 3 ngàysau, NHNN lại có Công văn số 9779/NHNN-CSTT ấn định lãi suất tối đa 14%, bao gồmcả các khoản chi khuyến mại dưới mọi hình thức.

Như vậy, NHNN đã sử dụng quyềnkhống chế lãi suất được quy định trong Luật NHNN Việt Nam năm 2010, trong khiLuật này chưa có hiệu lực.

Liên tục xuất hiện các nghịch lý về lãi suất trong suốt cả năm: Lãi suất công bốdanh nghĩa và lãi suất thực chất của các ngân hàng có khoảng cách khá lớn, nhấtlà lãi suất tiết kiệm. Lãi suất huy động được niêm yết cứ bằng nhau chằn chặnvới hàng chục kỳ hạn khác nhau, từ vài tuần cho đến vài năm. Lãi suất gửi tiềnvào ngân hàng còn cao hơn cả cổ tức trả cho cổ phiếu của nhiều ngân hàng. Lãisuất cơ bản khóa cứng trong nhiều điều luật, nhưng tự nhiên lại trở thành vônghĩa đối với các ngân hàng thương mại.

Quá nhiều mức lãi suất huy động cũng nhưcho vay được niêm yết rõ ràng giữa thanh thiên bạch nhật, nhưng thật ít, giảnhiều, mức giao dịch thường là cao hơn công bố. Ngân hàng lôi kéo, gạ gẫm ngườigửi tiền. Người vay kỳ kèo, bớt một thêm hai tiền lãi vay ngân hàng. Chưa baogiờ, các nhà băng lại tranh nhau mặc cả làm giá đồng tiền, đến mức không khácnào ngoài chợ trời.

NH: Bao giờ hết

Theo đúng quy định của Bộ luật Dân sự thì cả lãi suất huy động và cho vay cũngkhông được phép vượt quá 150% lãi suất cơ bản, tức không quá 13,5%/năm, nếu lãisuất cơ bản ở mức 9%/năm. Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14/4/2010 của Thốngđốc NHNN “Hướng dẫn TCTD cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãisuất thỏa thuận” cũng không hề có quy định nào cho phép vượt quá trần lãi suấtnày.

Thế nhưng, hầu như “cả làng” đều huy động và cho vay vượt giới hạn luậtđịnh. Không còn biết thế nào là đúng hay sai pháp luật. Vì thế, Techcombank mớiđột ngột tung ra “quả bom” lãi suất huy động, nhảy vọt từ 14 lên 17%/năm, liềnsau đó SeABank kích lên 18%/năm, làm hoảng loạn thị trường tiền tệ.

NHNN đã cảnhcáo Techcombank về việc làm này, tuy nhiên về mặt pháp lý thì lại không dựa trênmột quy định pháp luật cụ thể nào. Việc yêu cầu cách chức Giám đốc TechcombankPhú Mỹ Hưng huy động lãi suất cao cũng không dựa trên cơ sở pháp lý.

Tỷ giá đi đêm

Sức nóng tỷ giá USD trong năm 2010 cũng không chịu thua kém lãi suất. Cuối năm2009, NHNN đã điều chỉnh tỷ giá VND/USD lên 5,44%; đến tháng 2/2010 điều chỉnhtỷ giá hơn 3,36% và tháng 8/2010, tiếp tục điều chỉnh gần 2,1%. Như vậy, chưađầy một năm đã “phá giá” đồng nội tệ trên 10,5%. Nhưng, tỷ giá thị trường tự dothì mới thực sự phá giá. Trong khi tỷ giá tối đa mà ngân hàng được phép giaodịch chốt chặt ở 19.500 đồng/USD, thì giá USD bên ngoài cao nhất lên đến trên21.500 đồng/USD, chênh lệch trên 10%.

NHNN liên tục tuyên bố bảo đảm cung ứng đủ nhu cầu ngoại tệ cho thị trường,nhưng sự thực thì các doanh nghiệp đồng thanh kêu trời vì phải mua USD với giáchợ đen. Ngân hàng thương mại không thể mua được USD với giá “mậu dịch” thì cũngchẳng thể bán cho doanh nghiệp với giá “phân phối”. Thế là các nhà trung giantài chính phải làm một việc bất đắc dĩ là trở thành trung gian hợp pháp hóa đôla chợ đen. Ngân hàng buộc phải đi đêm mua bán hoặc đi đêm môi giới giữa ngườimua và người bán USD.

Chẳng hạn một giao dịch của ngân hàng bán cho doanh nghiệp10 triệu USD thì phải “chế biến” chứng từ để hạch toán số tiền thực mua, thựcbán chênh với số tiền ghi trên sổ sách có khi lên đến 20 tỷ đồng. Chứng từ sổsách kế toán, xuất nhập, thu chi cho là hợp pháp cũng được mà bảo là phi phápcũng cam.

Tăng vốn cưỡng ép

Năm 2010 là đỉnh điểm của chuỗi bất cập về yêu cầu tăng vốn điều lệ ngân hàng.Trong 9 năm phải tăng vốn lên 600 lần, cao gấp đôi tốc độ tăng trưởng bình quân,bất chấp hiệu quả và hiệu ứng xấu, là một gánh nặng “đè bẹp” nhiều ngân hàng.Sức ép tăng vốn một đã gây ra sức ép tăng trưởng mười. Tất yếu gia tăng căngthẳng về cả quy mô huy động và cho vay, một yếu tố quan trọng đẩy chỉ số lạmphát lên 2 con số, gây nguy hiểm trực diện cho thị trường tiền tệ.

Một đất nướccó rất ít doanh nghiệp được xếp vào loại doanh nghiệp lớn, với tiêu chí vốn điềulệ 100 tỷ đồng. Vậy thì tại sao phải bắt tất cả các ngân hàng dù nhỏ yếu nhấtcũng phải tăng vốn lên tới 3.000 tỷ đồng? Một thực tế hiển nhiên là có nhiềungân hàng không muốn và không có khả năng tăng đủ vốn pháp định.

Tình hình càngthêm căng thẳng trước việc NHNN liên tục hối thúc và “đe doạ” sẽ rút giấy phépcác ngân hàng chậm tăng, “lâu lớn”. Trong khi tình thế đang vô cùng nan giải nhưthế thì NHNN lại còn thành lập Ban soạn thảo Nghị định mới, dự kiến tiếp tụcnhanh chóng tăng vốn pháp định lên gấp mấy lần.

Rất may, vào những ngày cuối cùng của năm, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo việclùi lại thời hạn thực hiện Nghị định số 141/2006/NĐ-CP thêm 1 năm. Điều này giúptránh một cuộc khủng hoảng đáng tiếc. Theo tôi, trong vài năm tới, cần bãi bỏhẳn yêu cầu tăng vốn tối thiểu lên 3.000 tỷ đồng, thay vào đó, chỉ cần ấn địnhmức vốn pháp định đối với ngân hàng là 1.000 tỷ đồng.

Năm 2010 là đỉnh điểm của chuỗi bất cập về yêu cầu tăng vốn điều lệ ngân hàng

Như vậy, những ngân hàngnhỏ nhất cũng đã có mức vốn gấp 10 lần so với tiêu chí để được xếp hạng vào loạidoanh nghiệp lớn. Sẽ là một sai lầm rất nghiêm trọng nếu cứ tiếp tục thực hiện ýđồ tăng vốn pháp định lên 5.000 - 10.000 tỉ đồng vào năm 2012 và 2015.

Nếu cho rằng năm qua đã thành công trong việc kìm hãm lãi suất không tăng caonữa, neo được tỷ giá không tăng hơn nữa và đã buộc được nhiều ngân hàng tăng đủvốn pháp định, thì cũng có phần đúng. Nhưng để quy định không xa rời thực tế; đểchính sách tiền tệ bớt lủng củng, bất cập; để tuyên bố đừng trái với diễn biếnthị trường, thì trước hết chúng ta phải thừa nhận đó là 3 điểm bất cập đã tạo rasóng cả cho hoạt động của các ngân hàng và nền kinh tế, và phải được khắc phụctrong thời gian tới.

Luật sư TrươngThanh Đức - Chủ tịch Công ty Luật BASICO; Giám đốc Pháp chế BaoViet Bank

Theo DĐDN