Trong suốt vài chục năm quachi ngân sách luôn cao hơn thu ngân sách nên nợ công tăng là điều dễ hiểu.
Để bù cho các khoản thâm hụt ngân sách Chính phủ thường đi vay bằng phát hànhtrái phiếu hay vay các tổ chức quốc tế.
Như thế tính toán và theo dõi nợ công là việc đơn giản, không khó khăn gì. Nợcông rốt cuộc là khoản nợ mà người dân phải trả bằng thuế của mình (hay bán tàinguyên của đất nước) trong tương lai.
Tất cả các nước phát triển đều công khai các khoản nợ công của mình. Đấy là cáchlàm có trách nhiệm với nhân dân, những người chủ của đất nước cũng là các con nợcủa các khoản nợ công.
|
Tất cả các nước phát triển đều công khai các khoản nợ công của mình. Đấy là cách làm có trách nhiệm với nhân dân, những người chủ của đất nước cũng là các con nợ của các khoản nợ công |
Ở Việt Nam một thời ngân sách là bí mật quốc gia và nợ của Chính phủ cũng vậy.Nay Bộ Tài chính đã công khai một số dữ liệu của ngân sách, nợ nước ngoài...nhưng chưa đầy đủ, nhiều khi số liệu mâu thuẫn nhau và so với chuẩn mực quốc tếcần phải cải thiện hơn.
Các nhà chức trách nói nợ công của Việt Nam vẫn ở mức an toàn. Nhưng nợ côngthực là bao nhiêu?
Theo Bộ Tài chính, ở thời điểm 30/6/2009 nợ nước ngoài của Việt Nam bằng 29,8 %GDP (23,6 tỉ Đô la). Từ tháng 6/2009 đến tháng 3/2010 Việt Nam đã ký thỏa thuậnvay và bảo lãnh có giá trị tổng cộng khoảng 4,8 tỉ Đô la (1,205 tỉ Đô la vớiNgân hàng Phát triển châu Á; 927 triệu Đô la với Ngân hàng Thế giới; 1,62 tỉ Đôla với Nhật Bản; và đã phát hành 1 tỉ Đô la trái phiếu quốc tế). Nếu giải ngânhết các khoản này thì nợ nước ngoài của Việt Nam có thể tăng lên khoảng 35% GDP.
Chưa rõ nợ trong nước của Chính phủ là bao nhiêu. Tính và theo dõi khoản này rấtdễ (tổng các trái phiếu chưa đến hạn trả + các khoản vay hay tạm ứng khác; cáckhoản Chính phủ yêu cầu Ngân hàng Nhà nước tạm ứng cho ngân sách), nhưng khôngcó số liệu tổng hợp.
Vì thế người ngoài phải ước lượng. Theo World Factbook của CIA, nợ công của ViệtNam năm 2008 ở mức 38,60% GDP nhưng năm 2009 đã tăng rất nhanh lên mức 52,30%GDP đứng hàng thứ 44/129 quốc gia về nợ nần (mức nợ công thấp nhất 1,1% và mứccao nhất 304,3% GDP, có 44 quốc gia có nợ công trên 50% GDP).
Mỹ mang tiếng lànước nợ nhiều nhất nhưng nợ công chỉ chiếm 39,70% GDP (nhưng có báo Việt Nam nóigần 300%!); trong các nước ASEAN chỉ có Phillipines có nợ công cao hơn Việt Nam;Hy Lạp có nguy cơ vỡ nợ có mức nợ công chiếm 108,10% GDP.
|
Thu chi của Nhà nước trong giai đoạn 2000-2007, theo nguồn từ Tổng cục Thống kê (không rõ vì sao không thấy tổng thu của năm 2001) |
Tuy nhiên, theo các nhà chức trách, cuối 2009 nợ công của Việt Nam chỉ chiếmkhoảng 44,7% GDP. Có quan chức còn nói “nếu nợ công cao hơn nữa, vẫn đảm bảotrong giới hạn an toàn cho phép”.
Điều đáng lo ngại là nợ nước ngoài tăng rất nhanh như nêu ở trên. Và hiệu quảchi tiêu, hiệu quả đầu tư không cao, nạn tham nhũng và nạn “khát đầu tư” của cáccơ quan nhà nước vẫn không hề dịu đi, và vì thế nợ có thể tăng nhanh nếu khôngđược kiểm soát chặt, nhất là việc bảo lãnh cho các doanh nghiệp nhà nước và tưnhân vay vốn, việc phân cấp vay vốn.
Nợ công nếu sử dụng khéo có thể phục vụ tốt cho phát triển đất nước, còn sử dụngkém hiệu quả có thể dẫn đất nước đến nợ nần chồng chất và thế hệ mai sau phảigánh trách nhiệm trả nợ. Nợ công có thể tính và theo dõi dễ dàng và phải công bốchính xác cho nhân dân, những người sẽ phải trả nợ, được biết.
Theo NguyễnQuang A