Làm sao để ngân hàng bớt gánhnặng và thị trường vốn phát huy hết chức năng vốn có đang là bài toán nan giải.

Theo Ủy ban Giám sát tài chínhQuốc gia, tính đến năm 2009, có tới 80% vốn cho nền kinh tế - trong tổng số 1,7triệu nghìn tỷ đồng quy mô tín dụng - là phụ thuộc vào ngân hàng.

Huy động vốn từ chứng khoán còn khiêm tốn

Nhìn nhận xung quanh con số nói trên, ông Lê Đức Thúy, Chủ tịch Ủy ban Giám sáttài chính Quốc gia phân tích: về nguyên lý, hoạt động của hệ thống ngân hàng chủyếu là nơi cung cấp vốn ngắn hạn, vốn lưu động cho doanh nghiệp.

Còn doanhnghiệp muốn mở rộng đầu tư, kinh doanh phải tự bỏ vốn hoặc tập hợp nhiều ngườigóp vốn hay phát hành cổ phần, cổ phiếu trên thị trường chứng khoán để huy độngvốn. Đương nhiên, cũng có một tỷ lệ đầu tư dài hạn vay từ ngân hàng, nếu ngânhàng huy động được kỳ hạn đó nhưng số đó hiện chiếm tỷ lệ không lớn.

Vì  thế, ông Thúy cho rằng, ở Việt Nam, do thị trường vốn mới chỉ phát triển vàinăm gần đây nên chức năng chuyển tải vốn từ người có vốn nhàn rỗi (tiết kiệm)đến người cần vốn để sử dụng (đầu tư) chủ yếu vẫn dựa vào ngân hàng. 

Từ khi thị trường chứng khoán ra đời, hệ thống ngân hàng phần nào giảm tải đượcgánh nặng cung cấp nguồn vốn đầu tư trung - dài hạn cho nền kinh tế, nhưng tỷtrọng còn khiêm tốn. Các khoản đầu tư vào thị trường chứng khoán không hẳn vìmục đích dài hạn, nhà đầu tư không quan tâm nhiều đến hệ số P/E (hệ số giữa thịgiá một cổ phiếu và thu nhập của cổ phiếu đó mang lại) mà chủ yếu là giá cổphiếu hàng ngày, mua để “lướt sóng”, kiếm chênh lệch giá. 

Có lẽ, đó là lý do để nói rằng, chỉ có một tỷ lệ nhỏ tổng vốn giao dịch trên thịtrường chứng khoán được chuyển vào khu vực sản xuất kinh doanh, mà dẫn chứng lànhững năm thị trường chứng khoán hưng thịnh như 2007 thì tỷ lệ này cũng chỉ có20%, phần còn lại chỉ chuyền tay, lướt sóng từ người này sang người khác.

Thực ra, nếu nền kinh tế hoạt động một cách bình thường, ngân hàng cứ “cho vaytay phải, thu nợ tay trái” thì có thể, bất ổn nêu trên sẽ chỉ nhìn thấy dướidạng… nguyên lý.

Thị trường tài chính Việt Nam chủ yếu vẫn đi... một chân

“Tái cấu trúc thị trường tài chính” là cụm từ được nhắc đến khá nhiều trong thời gian gần đây, tuy nhiên, làm thế nào để xác định lộ trình, tách bạch chức năng thị trường tiền tệ và thị trường vốn, nhằm hướng thị trường tài chính đến sự phát triển bền vững thì vẫn chưa được quan tâm rốt ráo (Ảnh: Reuters)

Tuy nhiên, từ khi Ngân hàng Nhà nước kiên quyếtgiảm tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn từ40% xuống 30% để đảm bảo an toàn hệ thống; vàđặc biệt là từ đầu 2010, khi Chính phủ có chủtrương ổn định lãi suất, hỗ trợ doanh nghiệp tậndụng thời cơ, đầu tư chuyển đổi cơ cấu sản phẩm,cơ cấu thị trường và song hành là các giải pháptài chính dài hơi cho chúng đã dẫn đến căngthẳng nguồn vốn trung, dài hạn trong hệ thốngngân hàng, thì vấn đề trên trở nên nóng hổi. 

Tại một hội thảo mới đây, ông Trần Du Lịch, Ủyviên Ủy ban Kinh tế Quốc hội lo lắng: “Nếu tiếptục đặt gánh nặng này cho hệ thống ngân hàng thìdù có đạt kết quả nhất thời nhưng sẽ tích tụthêm nguy cơ cho cả hệ thống. Hệ thống ngân hàngdù phát triển đến đâu cũng không thể chịu đượcgánh nặng cung cấp 6 - 7 đồng tín dụng để tăngmột đồng GDP!”. 

Để doanh nghiệp “bơi” trên thị trường vốn

“Tái cấu trúc thị trường tài chính” là cụm từđược nhắc đến khá nhiều trong thời gian gần đây,tuy nhiên, làm thế nào để xác định lộ trình,tách bạch chức năng thị trường tiền tệ và thịtrường vốn, nhằm hướng thị trường tài chính đếnsự phát triển bền vững thì vẫn chưa được quantâm rốt ráo. 

Trong một lần trả lời phỏng vấn Thời báo Kinh tếViệt Nam, Thống đốc Nguyễn Văn Giàu cũng thừanhận: “Làm sao để doanh nghiệp “bơi” trên thịtrường vốn? Điều này rất có lý vì khi đó, doanhnghiệp huy động vốn trên thị trường vốn sẽ cóchi phí thấp do không phải qua trung gian ngânhàng”.

Liên quan đến vấn đề này, ông Thúy cho rằng,trước hết, thị trường chứng khoán phải pháttriển lành mạnh, có sự quản lý và giám sát tốt.Để dần dần, tạo ra tâm lý và hành vi đầu cơ đúngđắn chứ không để người ta biến đó thành chỗ lướtsóng. Ở đó là nơi để các nhà đầu tư có tổ chứchoạt động, chứ không phải “toàn dân chơi chứngkhoán” như bây giờ.

Thêm vào đó, nhà nước phải tạo ra môi trườngkinh tế vĩ mô ổn định từ chính sách phát triển,chính sách tài chính, tiền tệ, ổn định giá cả…thìmới thu hút được các nhà đầu tư lâu dài. Còn nếumôi trường kinh tế chưa ổn định thì ngay cả gửitiền ngân hàng, người dân vẫn không dám gửi dài.

Ông Vũ Đình Ánh, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứuthị trường giá cả (Bộ Tài chính) “hiến kế”, đểgiải quyết vấn đề này thì phải thực hiện chínhsách “kéo đẩy”, có nghĩa: một mặt hạn chế nguồnvốn đầu tư trung dài hạn từ hệ thống ngân hàngmà việc giảm tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vaytrung - dài hạn từ 40% xuống còn 30% là điều rấtcần thiết. 

Tất nhiên, theo ông Ánh, nếu ngân hàng thươngmại huy động được một tỷ lệ nào đó vốn trung -dài hạn thì họ có quyền cho vay trung, dài hạn.Qua đó, doanh nghiệp phải tự tìm vốn ở kênh thịtrường vốn thông qua phát hành trái phiếu doanhnghiệp, cổ phần ra công chúng.

Ngoài ra, một điều không thể không nhắc đến là tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tớithời điểm này đang bị “hụt hơi”, khi khá nhiềudoanh nghiệp nhà nước không muốn trở thành doanhnghiệp đại chúng. 

Sở dĩ như vậy là bởi họ quá coi trọng và so bìvề giá như thời điểm hoàng kim 2006 - 2007,trong khi nếu tồn tại theo mô hình cũ, vừa đượchưởng “bầu sữa mẹ” từ nhà nước, vừa không “bị”minh bạch.

Và như thế, trong nhiều năm nữa, trong khi hệthống ngân hàng tiếp tục quá tải thì những côngcụ  nợ, công cụ vốn của doanh nghiệp và cao hơnlà các sản phẩm chứng khoán hóa các công cụ nợcủa thị trường nhà ở, công trình BOT hay quỹ đầutư hỗ tương bất động sản (REIT)… vẫn xa vời.

Theo Nguyễn Hoài
Thị trường tài chính Việt Nam chủ yếu vẫn đi... một chân