Hết tháng 2/2011, nợ dưới chuẩn của khối ngân hàng thương mại cổ phần khoảng22.000 tỷ đồng (1,76%/tổng dư nợ). Dù tỷ lệ này thấp hơn so với mức trungbình hệ thống (2,33%) nhưng với cung cách quản tiền vay ở các ngân hàng vànhững kẻ hở do cơ chế thì chưa thể vội mừng.
Khó đong đo
Số liệu từ một đơn vị nghiệp vụ của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, hết tháng2/2011, dư nợ cho vay của khối ngân hàng cổ phần trên 1,2 triệu tỷ đồng,tương ứng trên 55% tổng dư nợ toàn hệ thống. Nếu so với tháng trước, tăng2,16% và so với 31/12/2010, tăng 3,9%; trong đó, dư nợ VND chiếm trên 79%tổng dư nợ của khối này.
Như vậy, trung bình mỗi tháng, tổng dư nợ khối ngân hàng cổ phần tăng trên1,9% trong khi tỷ lệ này của cả hệ thống chỉ 1,76%. Đáng chú ý, trong số 39ngân hàng của khối thì chỉ có 10 đơn vị có dư nợ giảm, còn lại đều tăng.
Có vẻ như dư nợ tăng thì nợ không đủ tiêu chuẩn tăng theo là điều khótránh. Đến cuối tháng 2 năm nay, nợ dưới chuẩn của khối vượt quá con số22 nghìn tỷ đồng, tăng 0,14% so với tháng trước và tăng 0,16% so với31/12/2010.
Theo đánh giá chung của những người chuyên theo dõi nợ xấu ở các ngân hàngthương mại thì nợ dưới chuẩn của khối ngân hàng cổ phần không cao lắm, nếuso với mức trung bình chung cả hệ thống là 2,33% và đặc biệt là trong suốt 3tháng: 12/2010, 1 - 2/2011, tỷ lệ nợ dưới chuẩn của khối này chỉ 1,67%/tổngdư nợ bình quân của khối, tương ứng với trên 42% tổng số nợ không đủ tiêuchuẩn toàn hệ thống.
Dù vậy thì điều không vui là trong hai tháng liên tục, nợ không đủ tiêuchuẩn của khối này vẫn tăng, kể cả khi tín hiệu “thắt chặt tiền tệ” và giảmdư nợ cho vay của Ngân hàng Nhà nước đã được phát đi từ đầu năm.
Nhận xét về vấn đề nợ xấu, một lãnh đạo cấp vụ của Ngân hàng Nhà nước, vốnchuyên tiếp xúc với con số “đáng ghét” này, cho biết: “Trong bối cảnh sảnxuất đình trệ như hiện nay, nợ xấu không tăng mới lạ”.
Theo ông, khi khảnăng tiêu thụ hàng hóa chưa ổn định trở lại, đặc biệt là sự thu hẹp của thịtrường xuất khẩu, hàng hóa làm ra không bán được hoặc bán chậm, đã làm chotình hình tài chính doanh nghiệp ngày càng xấu thêm. Bởi thế, chuyện nợ đangtừ nhóm 1 hay nhóm 2 bị chuyển sang nhóm 3, thậm chí nhóm 4, 5 rất khó tránh.
![]() |
Có vẻ như dư nợ tăng thì nợ không đủ tiêu chuẩn tăng theo là điều khó tránh |
Thứ hai, vấn đề cơ cấu dư nợ tại các ngân hàng và đặc biệt là rủi ro đạo đứccủa cán bộ tín dụng cũng là yếu tố làm gia tăng nợ xấu.
Chẳng hạn, các hồ sơ vay lúc nào cũng dành cho sản xuất, dự án, phương ánkinh doanh khả thi nhưng khổ nỗi, cách vay tiền ngân hàng ở Việt Namtrênthế giới chỉ có một. Đó là sau khi ký kết xong hợp đồng vay, khách hàng đưaôtô đến chở cả bao tải tiền đi, còn cán bộ tín dụng thì thỉnh thoảng mới đếnngó vào dự án/phương án sản xuất.
“Thật khó biết bao tải tiền kia có vào sản xuất hay chỉ loanh quanh ở khuvực phi sản xuất như bất động sản, thị trường tài chính. Đầu tư ở khu vựcnày thì chỉ có tiền từ túi này chảy sang túi kia và người nào ôm cuối cùngthì phải thua lỗ”, ông này nói.
Thế nên, dù thi thoảng Ngân hàng Nhà nước có công bố các con số tín dụngkhu vực phi sản xuất nhưng con số thực tế vẫn là một ẩn số. Và xa hơn, làcon số nợ xấu tại các ngân hàng rất khó đong đo mức độ xác thực đến đâu, khimà đây là vấn đề vẫn được cho là nhạy cảm từ trước đến nay.
Còn khe hở
Một đơn vị nghiệp vụ thường xuyên được tiếp xúc với nhiều thông tin từ cácngân hàng là Trung tâm Thông tin tín dụng (CIC) nhưng với cơ chế hiện nay,cơ quan này cũng chỉ quản lý và thông tín những con số rời rạc, chắp vá vàquyền năng bị hạn chế, chưa xứng tầm với chức năng “cảnh bảo rủi ro tín dụng”.
Hiện tại, CIC cũng thông tin nhiều vấn đề như nợ không đủ tiêu chuẩn của hệthống, từng ngân hàng hay danh sách khách hàng nợ nhóm 3, 4, 5 và “kháchhàng có quan hệ nhiều tổ chức tín dụng” mà chưa có thông tin khách hàng cónợ xấu với nhiều tổ chức tín dụng.
Theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005, Thống đốc Ngân hàng Nhànước quy định: “Trường hợp một khách hàng có nhiều hơn một (01) khoản nợ vớitổ chức tín dụng mà có bất kỳ khoản nợ bị chuyển sang nhóm nợ rủi ro cao hơnthì tổ chức tín dụng bắt buộc phải phân loại các khoản nợ còn lại của kháchhàng đó vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ rủi ro”.
Đây là nguyên tắc “một khách hàng chỉ có một nhóm nợ”, được quy định khángặt nghèo để giảm thiểu tổn thất ở mức thấp nhất, nhằm làm lành mạnh hoạtđộng tín dụng.
Có nghĩa, một khách hàng A có 3 món vay, món 1 trị giá 3 tỷ đồng ở nhóm 1,món 2 trị giá 2 tỷ đồng ở nhóm 2 (bắt đầu quá hạn nhưng dưới 90 ngày), nhưngmón 3 dù chỉ 500 triệu đồng mà bị nhảy vào nợ nhóm 4 thì tất cả 3 món vaytrên với tổng số tiền vay 5,5 tỷ đồng đều bị rơi vào nhóm 4. Hay nói cáchkhác, tất cả nhóm nợ của khách hàng trên đều bị quy đổi về nhóm nợ xấu nhấtmà một trong số các món nợ bị rơi vào đó.
Vấn đề bắt đầu ở đây. Nếu khách hàng trên vay một ngân hàng thì mọi chuyệnđơn giản vì quản trị rủi ro ngân hàng đó sẽ xử lý. Nhưng nếu khách hàng trênvay nhiều ngân hàng khác nhau thì nguyên tắc trên gần như không có tác dụng.Rất có thể, khách hàng sẽ giấu điều này và các ngân hàng thương mại trót“dan díu” với khách hàng này rất khó biết được khách hàng đó nợ những ai vàthiếu khả năng đề phòng bất trắc.
Để giảm thiểu rủi ro, nhiều ngân hàng thương mại cho rằng, CIC là đơn vịđược tiếp cận nhiều thông tin, nên cần giao cho đơn vị này “quyền quy đổi vềnhóm nợ” đối với nợ xấu của một khách hàng ở nhiều tổ chức tín dụng theo nhưquy định tại Quyết định 493, để thông báo ngay cho những ngân hàng sắp trởthành “nạn nhân” của khách hàng nói trên. Thậm chí, nếu cần thiết, có thểthông báo cho cả hệ thống biết.
Theo NguyễnHoài
VnEconomy