Về hình thức, văn bản sửa đổivà bổ sung Thông tư 13 chỉ vẻn vẹn 3 trang A4, không nhiều thay đổi. Nhưng chỉcần 1 từ trong đó có thể mang lại giá trị lớn.
Cuối cùng, kết quả sửa đổi và bổ sung Thông tư 13 đã được Ngân hàng Nhà nước“chốt” lại và công bố vào cuối chiều 27/9. Đó là Thôngtư 19.
Về cơ bản, việc sửa đổi, bổ sung chỉ tập trung ở ba “vùng” nội dung. Nếu nhìnlại những kiến nghị dài 9 trang từ ý kiến của các thành viên thị trường, qua đầumối Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) tập hợp trước đó, có thể là những tiếngthở dài chưa thỏa mãn.
Dễ hiểu khi suốt thời gian qua, một nội dung được nhiều ý kiến tập trung nhấnmạnh và phân tích đã không được đáp ứng. Đó là việc xét lại hệ số rủi ro (250%)đối với các khoản cho vay đầu tư, kinh doanh bất động sản và chứng khoán, nhưngkhông có một từ nào trong Thông tư 19 đề cập đến. Hay kiến nghị đưa tiền gửikhông kỳ hạn của tổ chức kinh tế vào vốn huy động để cho vay cũng chỉ được xét ởmức 25%. Rồi kiến nghị có thể giãn lộ trình thực hiện nâng tỷ lệ an toàn vốn tốithiểu từ 8% lên 9% cũng không được chấp thuận…
Thế nhưng, trong ba “vùng” nội dung đó, những quy định sửa đổi, bổ sung trongThông tư 19 đã mang lại giá trị lớn cho các ngân hàng thương mại, tổ chức tíndụng. Giá trị này, trước hết, được nhìn nhận ở góc độ tiếp cận văn bản pháp luật,hiểu theo nghĩa các ngân hàng, tổ chức tín dụng được phép làm “những gì phápluật không cấm”.
Hay nói cách khác, đó là một giá trị ngoại suy mà không thể hiện trực tiếp ở cáccâu chữ, hay quy định cụ thể, chi tiết theo những điều chỉnh, bổ sung mới choThông tư 13.
Nội dung đầu tiên của Thông tư 19 đề cập đến việc sửa đổi quy định trong Khoản 2Điều 1. So với Thông tư 13, ở đây cũng vẫn là 5 “gạch đầu dòng” các tỷ lệ bảođảm an toàn quy định tại Thông tư. Thế nhưng đã có một chi tiết khác biệt.
Cụ thể, Điểm đ, của Khoản 2 Điều 1 đã có điều chỉnh là: “Tỷ lệ cấp tín dụng từnguồn vốn huy động” thay cho “Tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động”trong quy định của Thông tư 13. Mấu chốt giá trị nằm ở đây.
![]() |
Có thể kỳ vọng những điều chỉnh mới của Ngân hàng Nhà nước là một hướng hỗ trợ đối với các tổ chức tín dụng về nguồn vốn để cùng với các giải pháp hỗ trợ khác hướng tới định hướng hạ dần lãi suất |
Một cách hiểu ngoại suy khi tiếp cận Thông tư 19, chỉ một điều chỉnh “nhỏ” ởtrên, giữa “từ” và “sovới” đã thay đổi bản chất củaquy định và ràng buộc đối với nguồn vốn mà các tổ chức tín dụng được phép dùngđể cho vay. Tức là, quy định về tỷ lệ cấp tín dụng là đối với nguồn vốn “từnguồn vốn huy động”. Ở đây có thể hiểu là nó độc lập với nguồn vốn tự có của cácnhà băng.
Nói một cách hình ảnh, thay vì quy định an toàn khi tham gia giao thông, anhphải trang bị bảo hiểm cho tất cả các bộ phận trên cơ thể; nhưng theo điều chỉnhmới, anh chỉ phải đội mũ bảo hiểm để bảo vệ bộ phận quan trọng nhất và nhiều rủiro nhất; các bộ phận khác có thể “thoải mái” hơn.
Dĩ nhiên, cách hiểu ngoại suy trên đối với quy định đó trong Thông tư 19 có thểcần sự giải thích cụ thể hơn từ Ngân hàng Nhà nước. Nhưng, một suy tính thôngthường, khi chỉ quy định “từ nguồn vốn huy động”, mặc nhiên nguồn vốn tự có đượcloại trừ. Các ngân hàng theo đó có điều kiện thuận lợi hơn nhiều khi sử dụngnguồn vốn tự có và nguồn vốn này không chịu ràng buộc bởi tỷ lệ cấp tín dụngtheo quy định các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong Thông tư.
Đi cùng với điều chỉnh trên, Mục 5 của Thông tư 13 cũng được thay đổi theo. Cụthể, “Tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động” (Thông tư 13) được thay bằng“Tỷ lệ cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động” (Thông tư 19). Rõ ràng, đã có thayđổi lớn. Và theo đó, tỷ lệ giới hạn 80% đối với ngân hàng và 85% đối với các tổchức tín dụng phi ngân hàng về mặt con số vẫn giữ nguyên như Thông tư 13, nhưngvề bản chất đã thay đổi, nó không bao hàm nguồn vốn tự có.
Tất nhiên, trong hoạt động, tỷ lệ đó cao hay thấp đi cùng với hiệu quả sử dụngvốn của các nhà băng, cũng như đi cùng với các mức độ rủi ro. Nhưng điều chỉnhtrên của Ngân hàng Nhà nước có thể xem là một hướng cởi mở hơn trước đó.
Ngoài điều chỉnh trên, Thông tư 19 cũng đã tạo điều kiện để các tổ chức tín dụngcó thể sử dụng thêm nguồn vốn từ tiền gửi của Kho bạc Nhà nước, từ tiền vay củacác tổ chức tín dụng khác có kỳ hạn từ 3 tháng trở lên, 25% tiền gửi không kỳhạn của tổ chức kinh tế để cho vay. Trong đó, 25% tiền gửi không kỳ hạn của cáctổ chức kinh tế, không trọn vẹn 100% như kiến nghị từ các thành viên, nhưng cócòn hơn không.
Xét rộng hơn, có thể kỳ vọng những điều chỉnh trên của Ngân hàng Nhà nước là mộthướng hỗ trợ đối với các tổ chức tín dụng về nguồn vốn, và liên quan dĩ nhiên làgiảm thiểu chi phí, để cùng với các giải pháp hỗ trợ khác hướng tới định hướnghạ dần lãi suất trong thời gian tới.
Theo Minh Đức
VnEconomy