Bánh được cuộn tròn thành từng cuộn thay vì để từng tấm như các loại bánh đa thông thường, ấy là (xã Tráng Liệt, huyện Bình Giang, Hải Dương). Loại bánh đa được làm ở làng Sặt là loại bánh đa ngọt.
Ở Hải Dương hầu như ở huyện nào cũng có người làm bánh đa nhưng chỉ
có bánh đa Kẻ Sặt mới nổi tiếng trở thành đặc sản của Hải Dương tương tự
như bánh gai, bánh đậu xanh... Nguyên liệu làm bánh gồm có gạo, đường,
có thêm vừng, lạc và dừa thái mỏng và thêm hương vị của gừng tươi. Ngày
nay còn có thêm cả gấc để tạo màu đỏ.
Để có thể làm ra những cuộn bánh đa người làm phải rất công phu và nhiều
công đoạn. Nguyên liệu làm ra bánh phải được lựa chọn rất kỹ. Gạo làm
cần đạt yêu cầu ngọt, tơi và nhiều bột. Hiện nay người dân hay làm bằng
loại gạo CR203. Vừng cũng phải chọn loại vừng tốt, loại vừng tấm là tốt
nhất. Lạc được chọn phải là loại lạc già, nhân to, mẩy để dễ thái mỏng.
Dừa phải chọn loại dừa già, cùi dày.
Kẻ Sặt thời phong kiến là một xã thuộc tổng Thị Tranh. Kẻ Sặt là tên nôm của làng Tráng Liệt. Năm 1958, tách một phần xã Tráng Liệt, lập thị trấn Kẻ Sặt. |
Khi đã có được các nguyên liệu đạt tiêu chuẩn, người làm bánh ngâm
gạo trong nước sạch khoảng từ 1 đến 2 tiếng. Sau đó, vớt lên để ráo và
cho vào cối xay. Những gia đình làm bánh lâu năm đều có cối xay bột bằng
đá và xay thủ công. Trong quá trình xay gạo, vừa xay vừa đổ nước vào để
bột có nồng độ vừa phải, không loãng cũng không quá đặc để vắt lọc bằng
vải.
Để có được nước bột vừa có vị ngọt, lại có vị của gừng tươi, những người
làm bánh đã đun chảy đường và hòa với bột; gừng tươi thì được giã nhỏ
và lọc lấy nước. Sở dĩ phải giã nhỏ để vị gừng được hòa tan trong nước,
khi ăn, người ăn không gặp phải những miếng gừng trong bánh, tránh việc
quá cay tại một chỗ.
Ngoài nước bột ngọt vị đường và thơm vị gừng, bánh còn được gia thêm
vừng, lạc thái mỏng và dừa. Vừng đem ngâm, xát bỏ vỏ; lạc sống được thái
thật mỏng, sau đó sảy bỏ vỏ. Dừa thái mỏng thành từng sợi.
Khi đã có đầy đủ nguyên liệu, việc tráng bánh được tiến hành. Gia vào
nồi khoảng 2/3 nước so với dung tích nồi, đun đều lửa và giữ ổn định
trong suốt quá trình tráng bánh. Khi nước sôi để khuôn lên miệng nồi múc
một muôi bột đổ lên khuôn, dùng muôi dàn đều trên mặt khuôn (công đoạn
này tương tự như tráng bánh cuốn).
Bánh đa Sặt, đặc biệt hơn bởi được tráng 2 lần. Lần thứ nhất rắc đều
vừng, lạc, dừa lên mặt bánh. Sau đó tiếp tục múc một muôi bột nữa đổ lên
trên láng đều kín hết nhân, đậy vung lại khoảng 1-2 phút mở vung ra,
lúc này bánh đã chín, dùng ống nứa dài 40-50 cm có đường kính 7-8 cm đặt
vào mép bánh đa, để bánh dính vào ống nứa sau đó từ từ năn tròn vào ống
nứa, đưa ống nứa đặt vào phên, lăn ống nứa ngược chiều khi cuộn bánh,
chiếc bánh đa trải đều trên phên. Trước khi đưa bánh sang phên người ta
tiếp tục đổ bột vào khuôn, khi đưa bánh sang phên xong thì bánh trên
khuôn chín; làm như vậy tiết kiệm thời gian.
Phên nứa dùng để phơi bánh được đặt ra ngoài nắng; khi ướt bánh dính vào
phên, lúc khô bong ra. Khi bánh khô thu bánh quay vào cót để theo từng
chồng. Nếu có khách mua thông thường người ta đóng bánh thành chục, lấy
giấy báo bọc ngoài dùng dây buộc.
Để tiện cho khách mua, người làm bánh hơ qua lửa để bánh chín. Khi tráng
và phơi xong, bánh có hình tròn. Tuy nhiên, khi quạt chín, bánh còn mềm
và dẻo, người làm đã cắt bánh làm đôi theo hình bán nguyệt và cuộn tròn
lại theo hình ống. Việc cuộn lại là để tránh bánh bị vỡ vụn khi vận
chuyển. Khi xưa, bánh có màu vàng óng, nhưng ngày nay, hầu hết những hộ
làm bánh hiện tại (chỉ còn rất ít hộ làm) cho thêm màu đỏ của gấc để
bánh có màu hấp dẫn hơn. Khi ăn, bánh có vị bùi của gạo, xen lẫn vị thơm
của lạc, vừng dừa, cùng với vị ấm của gừng tươi sẽ khiến người ăn thấy
tê tê đầu lưỡi. Tuy nhiên, chính vị bùi và béo của bánh khiến nó đặc
biệt hơn những loại bánh đa thông thường luôn gây cảm giác khô.