Việc tự do hóa lãi suất huy động bất chấp những điều kiện chưa chín muồi cóthể phát sinh hệ quả bất lợi khó lượng định.

Hệ quả đầu tiên làthúc đẩy quá trình tái cơ cấu vốn và dịch chuyển nguồn vốn bất thường củacác ngân hàng, gây xáo trộn kế hoạch kinh doanh của các ngân hàng.

Những hệ quả khó lường

Về cả lý thuyết và thực tiễn, thông thường người gửi tiền không phân biệt vàcũng chẳng quan tâm lãi suất cơ bản với trần lãi suất, thậm chí họ cũng mơ hồ vềcác hoạt động, tính thanh khoản và trạng thái lành mạnh cụ thể của các ngân hàng.Đối với đa số đám đông, ai huy động lãi suất cao thì gửi, thậm chí không cầnbiết tư cách pháp nhân và mục tiêu huy động vốn của người huy động. Rất nhiều vídụ và bài học đắt giá cho điều này qua những vụ vỡ hụi và huy động vốn đa cấpkhác trong và ngoài nước.

Trước sự hấp dẫn của lãi suất mới do cạnh tranh giữa các ngân hàng khi thực hiệntự do hóa lãi suất huy động, có thể làm gia tăng các hoạt động rút vốn của ngườigửi từ các ngân hàng có lãi suất thấp để  gửi vào các ngân hàng có lãi suất cao,nhằm hưởng lợi ích cao hơn.

Điều này là chính đáng và dễ hiểu, nhưng nếu kiểmsoát không tốt lại có thể tạo những làn sóng rút tiền và gửi tiền theo tâm lýđám đông, tạo vòng xoáy xáo trộn luồng vốn, cơ cấu vốn và các kế hoạch kinhdoanh của các ngân hàng, cũng như của vốn đầu tư xã hội. Nếu một số ngân hàngnào đó không chịu nổi áp lực rút vốn bất thường sẽ buộc phải tăng lãi suất huyđộng, hoặc chịu áp lực thanh khoản cao, thậm chí có thể phá sản cục bộ hoặc giảithể.

Bên cạnh đó, có thể gia tăng các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh, lừa đảovà vỡ nợ tín dụng dây chuyền mang tính xã hội

Mất cân đối cung - cầu

Tự do hóa lãi suất - vì sao chưa đến lúc?
Sức hấp dẫn của lãi suất mới do cạnh tranh giữa các ngân hàng có thể làm gia tăng các hoạt động rút vốn của người gửi từ ngân hàng có lãi suất thấp để gửi vào ngân hàng có lãi suất cao

VN đang trong quá trình cơ cấu lại các tổ chức ngân hàng theo chuẩn hoá nhằm bảođảm sự lành mạnh và sức cạnh tranh, sự ổn định vĩ mô của thị trường tài chínhtrong nước. Hiện còn một số ngân hàng  nhỏ chưa  đáp ứng yêu cầu tái cơ cấu vốnđiều lệ tối thiểu theo quy định của Nhà nước, hoặc gặp khó khăn chưa xử lý triệtđể về thanh khoản, nhưng lại không muốn giải thể, sáp nhập hoặc cổ phần hoá theoyêu cầu...

Do vậy, việc tự do hóa lãi suất huy động có thể, trong thời gian đầu, làm giatăng ít nhiều một số hoạt động huy động vốn với lãi suất cao (kể cả sự gia tăngluồng vốn gián tiếp nước ngoài rẻ đổ vào VN với những hệ lụy có thể, gây sốc vốnvà thanh khoản cho các ngân hàng như khi rút vốn đột ngột) và có thể cả các hànhvi tìm cách lách luật hoặc vi phạm luật để: hoặc sử dụng nguồn vốn huy động bổsung vào vốn điều lệ; hoặc tiến hành các hoạt động kinh doanh mạo hiểm do sức épphải cho vay lại với lãi cao; hoặc tạo hiện tượng lòng vòng vốn xã hội, kiểu“mua rẻ bán đắt - ăn chênh lệch lãi suất”, coi nhẹ mục tiêu tín dụng lành mạnh đối với xã hội và quản lý nhà nước  cho các ưu tiên phát triển kinh tế  và táicơ cấu.

Điều này cũng có nghĩa là trực tiếp và gián tiếp tạo sự cạnh tranh thiếu lànhmạnh, thậm chí cấu thành  các tội phạm và hành vi lừa đảo và vỡ nợ tín dụng dâychuyền mang tính xã hội, làm tăng tính rủi ro và nhạy cảm, sự mất ổn định  củahệ thống ngân hàng và  kinh tế vĩ mô trong nước.

Ngoài ra, tự do nâng lãi suất huy động quá mức sẽ làm gia tăng lạm phát do cácchi phí vốn tăng sẽ được DN chuyển trả vào chi phí giá thành sản xuất và tănggiá bán ra; cũng như có thể gây thu hẹp sản xuất, làm tăng mất cân đối cung-cầuhàng hóa - dich vụ trên thị trường.

Cần nhấn mạnh rằng, trong bối cảnh nhạy cảm hiện nay, mặt trái của cuộc đua lãisuất huy động là rất lớn, không chỉ có thể làm tăng chi phí đầu vào, giảm quy môđầu tư sản xuất, kinh doanh,  mà thể gây ra một số mất ổn định chung trong hệthống ngân hàng và đời sống kinh tế - xã hội.

Giải pháp ngắn hạn

Tự do nâng lãi suất huy động quá mức sẽ làm gia tăng lạm phát do các chi phí vốn tăng sẽ được DN chuyển trả vào chi phí giá thành sản xuất và tăng giá bán ra.

Để sớm thực hiện và góp phần kiềm toả những mặt trái, phát huy những tác độngtích cực của việc tự do hóa lãi suất huy động, cần chú ý những điểm sau:

Một mặt, trước mắt, thực hiện điều chỉnh ngay và thường xuyên hơn việc nới lỏngvà mềm hoá biên độ trần lãi suất huy động  phù hợp cung - cầu thị trường và bảođảm tính thanh khoản trong hoạt động của các ngân hàng.

Mặt khác, đẩy nhanh nghiêm túc các hoạt động chuẩn hoá và lành mạnh hoá cácngân hàng cả về tài chính và cơ chế quản trị theo kế hoạch tái cơ cấu và yêu cầuchung, sáp nhập các ngân hàng không đủ vốn điều lệ theo pháp định và kiên quyếtloại bỏ các cá thể yếu;...

Đồng thời, cần nhanh chóng chuẩn hoá và thống nhất hoá cơ sở pháp lý liên quanđến các hoạt động ngân hàng, nhất là các quy định giữa Luật Ngân hàng và Dân sựcó liên quan về vay và cho vay...

Ngoài ra, cần tăng cường và hoàn thiện hơncác công cụ quản lý khác, như mức vốn điều lệ, hạn mức tín dụng, mức dự trữ, tỷlệ nợ quá hạn, cơ cấu huy động và cho vay, các nghiệp vụ thị trường mở; cơ cấuvà thời gian mua tín phiếu; giải quyết cho ngân hàng nhỏ có khả năng tiếp cậnvốn trên thị trường tái cấp vốn; giãn biên độ tỷ giá và nâng lãi suất tín phiếulên.

Bản thân các ngân hàng, nhất là ngân hàng nhỏ mới thành lập, lâu nay chỉ chúý đến mặt kinh doanh, cũng cần chủ động dự báo tình hình thị trường, phântích được những tín hiệu về chính sách chống lạm phát và chuẩn bị trước,thực hiện dự phòng rủi ro tốt, kiểm soát tín dụng hợp lý, tránh coi nhẹ antoàn và quản trị kinh doanh, tối đa hóa quay vòng vốn, hoặc chủ quan, ỷ vàoNHNN, thị trường mở...

TS NguyễnMinh Phong - Viện nghiên cứu phát triển KTXH Hà Nội

Theo DĐDN