Nhiều nước trongkhu vực châu Á đồng loạt nâng mức lãi suất ngân hàng thời gian vừa qua.Nguyên nhân từ đâu dẫn đến tình trạng “lây lan” này?

“Cơn lốc” tăng lãi suất

Mở đầu cho chuỗi tăng lãi suất ngân hang đồng loạt của các quốc gia châu Álà cường quốc mới nổi Trung Quốc. Ngày 20/10 vừa qua, Ngân hàng Nhân dânTrung Quốc tuyên bố tăng lãi suất cơ bản huy động và cho vay đồngNhân dân tệ của các cơ quan tài chính - ngân hàng. Lãi suất huyđộng kỳ hạn một năm tăng 0,25%, từ 2,25% lên mức 2,5%. Lãi suất chovay kỳ hạn một năm tăng 0,25%, từ 5,31% lên tới 5,56%; lãi suất huyđộng và cho vay các loại kỳ hạn khác cũng sẽ được điều chỉnhtương ứng.

Đây là lần tiên Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc tăng lãi suất sau gầnba năm. Lần tăng lãi suất gần đây nhất là tháng 12/2007. Để ứng phótính thanh khoản dồi dào và áp lực lạm phát, năm 2007, Ngân hàngNhân dân Trung Quốc đã 6 lần tăng lãi suất huy động và cho vay. Từtháng 9/2009, để ứng phó khủng hoảng tài chính quốc tế, Ngân hàngNhân dân Trung Quốc lại 5 lần giảm lãi suất cho vay và bốn lần giảmlãi suất huy động.

Láng giềng của Trung Quốc, đồng thời cũng là “bạn hàng” lớn của nước này,Hàn Quốc cũng không nằm ngoài “vòng xoáy” tăng lãi suất. Ngân hàng Trungương Hàn Quốc (BOK) ngày 16/11 nâng lãi suất thêm 0,25% lên 2,5%. Đây là lầntăng lãi suất thứ hai trong năm nay.

Trước đó, BOK đã giữ lãi suất ở mứcthấp kỷ lục là 2% trong 17 tháng để đối phó với tình trạng suy thoái kinh tế,trước khi tăng lãi suất lên 2,25% trong tháng 7. Việc trì hoãn tăng lãi suấttrong ba tháng qua của BOK đã khiến lạm phát gia tăng tháng thứ hai liêntiếp trong tháng 10 vừa qua với tốc độ 4,1%, vượt mức trần 4% của BOK.

Tương tự Hàn Quốc, ngân hàng trung ương các nướcAustralia và Ấn Độ cũng tăng lãi suất để ngăn chặn lạm phát do đà phục hồikinh tế mạnh mẽ của khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Ngày 2/11, Ngân hàngDự trữ Australia (RBA) đã bất ngờ tăng lãi suất 25 điểm cơ bản lên 4,75% sau 6tháng đóng băng.

Vì sao ngân hàng châu Á đồng loạt tăng lãi suất?
Lạm phát tăng cao khiến ngân hàng Trung Quốc phải tăng lãi suất

Thống đốc RBA Glenn Stevens nhận định, cán cân rủi ro đã tới điểm và việcthắt chặt chính sách tiền tệ sớm, ở mức vừa phải là điều cần thiết. Hầu hếtcác nhà kinh tế dự đoán RBA sẽ duy trì lãi suất trong tháng thứ 6 liên tiếp,khi tỷ lệ lạm phát ở nước này gần đây vẫn ở mức thấp.

Các số liệu công bốtuần trước cho thấy lạm phát ở Australia trong quý III/2010 ở mức 2,4%, nằmtrong giới hạn 2 - 3% mà RBA đặt ra. Tuy nhiên, ông Stevens cho biết mặc dùgiá cả đang giảm song lạm phát có thể sẽ tăng trở lại trong trung hạn.

Trong khi đó, Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS) cho biết, lãi suất ở châuÂu và Mỹ khó có thể tăng trước năm 2011 để không ảnh hưởng xấu tới quá trìnhphục hồi kinh tế toàn cầu, vốn đang bị suy giảm bởi cuộc khủng hoảng nợ ởchâu Âu.

Tăng lãi suất để giảm lạm phát

Nguyên nhân tiên quyết mà chính phủ các nước đưa ra để giải trình lý do tănglãi suất thường là kiềm chế lạm phát. Tiến sĩ Kim Wan-joong đến từ Việnnghiên cứu tài chính Hana, Hàn Quốc, phân tích: sang đến tháng 9, áp lực lạmphát giá cả tăng vọt khiến tất cả các thành viên Ủy ban Tài chính tiền tệHàn Quốc đều nhất trí tăng lãi suất cơ bản lên 0,25 điểm phần trăm.

Nói cụ thể hơn, giá cả tiêu dùng vốn đã ổn định một thời gian dài, đếntháng 9 vừa qua đã đạt 3,6% và tháng 10 là 4,1%. Trước tình hình này, chínhphủ Hàn Quốc thấy cần thiết phải đối phó với xu hướng lạm phát giá cả và xuađi nỗi lo của người tiêu dùng về tăng giá, nên đã quyết định tăng lãi suấtcơ bản lên.

Như vậy, theo lời Tiến sĩ Kim thì việc tăng lãi suất cơ bản trong tháng 11là để đối phó với tình trạng lạm phát giá cả. Với sự gia tăng của giá rauquả, giá cả tiêu dùng đã tăng lên 4,1%, vượt quá mục tiêu về lạm phát màNgân hàng Trung ương Hàn Quốc đề ra.

Giá sản xuất cũng tăng lên đến 5%, mức cao nhất trong vòng 22 tháng trở lạiđây. Thêm vào đó, giá nguyên vật liệu trên thế giới cũng đang tăng nhanhchóng. Nếu không có biện pháp kiềm chế lạm phát từ bây giờ thì tỷ lệ tănggiá tiêu dùng trong năm tới có thể lên tới trên 3%.

Tuy nhiên, khi lãi suất cơ bản tăng lên thì sẽ kéo theo lượng ngoại tệ đổvào trong nước nhiều hơn, ảnh hưởng đến lợi ích của các doanh nghiệp xuấtkhẩu. Cũng chính vì lý do này mà trong tháng trước, bất chấp áp lực giá cả,Ngân hàng trung ương Hàn Quốc vẫn quyết định giữ nguyên mức lãi suất. Tuynhiên áp lực lên Ngân hàng trung ương đã nhẹ bớt khi các yếu tố bất ổn bênngoài, vốn dẫn đến việc đóng băng lãi suất, đã được giải tỏa, đặc biệt làsau khi Hội nghị thượng đỉnh G20 tại Seoul kết thúc.

Tương tự như vậy, quyết định của Trung Quốc tăng lãi suất vừa qua có thểví như một mũi tên bắn vào ba mục tiêu: lạm phát, bong bóng bất động sản vàbong bóng chứng khoán. Việc Trung Quốc tăng lãi suất cũng ảnh hưởng rất lớnđến thị trường tiền tệ, thị trường hàng hóa quốc tế, hầu hết các đồng tiền (trừUSD) đều bị mất giá, riêng đồng USD lên giá, chỉ số đồng USD từ 77 điểm tănglên 78,15 điểm.

Chỉ một giờ sau tuyên bố của Trung Quốc giá vàng, giá đồng, giá dầu vàgiá nông sản trên thị trường quốc tế đã giảm gần 2,5%. Qua kinh nghiệm tănglãi suất của Trung Quốc có thể rút ra bài học: Hiện nay, các điều kiện vàhoàn cảnh của nền kinh tế vĩ mô thay đổi hàng ngày, do đó chính sách cũngphải thay đổi cho phù hợp, chỉ khi nào chính sách thay đổi kịp thời thì mớicó thể phát huy được hiệu quả.

Vì sao ngân hàng châu Á đồng loạt tăng lãi suất?
Ngân hàng Hàn Quốc cũng tăng lãi suất để "theo kịp" các nước trong khu vực (Ảnh: Marketwatch)

Kinh nghiệm bình ổn thị trường tiền tệ

Theo các chuyên gia kinh tế thế giới, tăng lãi suất ngân hàng chỉ là biệnpháp tạm thời để kiềm chế lạm phát. Chính vì vậy, nhiều quốc gia đã thựchiện một loạt chính sách nhằm bình ổn nền kinh tế trong dài hạn.

Từ năm 2007, Hàn Quốc đã tích cực thực hiện nhiều biện pháp giảm áp lực lạmphát. Đầu tiên là thành lập tổ công tác về chính sách liên ngành đối với sựổn định giá cả với sự tham gia của 14 cơ quan Trung ương như Bộ Tài chínhkinh tế, Bộ Tài nguyên, Bộ Giáo dục, Bộ Nông lâm, Cơ quan y tế thực phẩm...

Ủy ban trao đổi thương mại bình đẳng. Nhiệm vụ là theo dõi, kiểm soátnhững sản phẩm tăng giá quá nhanh, thành lập “nhóm điều tra hiện trường”điều tra, theo dõi về việc sản xuất, lưu thông hàng hóa liên quan đến dânsinh. Chính quyền địa phương cũng thành lập cơ quan chỉ đạo và Ủy ban đốisách về giá cả để theo dõi xu hướng lên xuống của giá cả và đề ra chính sáchtương ứng.

Ở quy mô rộng hơn, tăng cường điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Theo đó, chínhphủ và cơ quan tài chính sẽ điều chỉnh phù hợp chính sách tiền tệ, kiểm soátthị trường ngoại hối.

Cụ thể, Hàn Quốc thực hiện miễn giảm thuế, tăng cườngtrợ cấp cho những gia đình có thu nhập thấp, mở rộng phạm vi hỗ trợ cho tầnglớp dân cư có thu nhập thấp thông qua các quỹ hỗ trợ tài chính cho giáo dục,hỗ trợ phúc lợi,  miễn giảm thuế. Đồng thời khuyến khích các doanh nghiệptạo thêm các cơ hội việc làm cho những người nghèo trong xã hội, sử dụngngân sách chính phủ giúp giảm bớt áp lực của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Ngoài ra, quan trọng không kém là ngăn chặn và xử lý nghiêm những hành vibán phá giá không chính đáng, trọng điểm là những hành động lũng đoạn giá cả,tăng cường giám sát các hành vi tăng giá cao các sản phẩm hàng hóa như dầumỏ, lương thực, phòng ngừa những giao dịch không minh bạch thông qua lợidụng thị trường và địa vị chính trị.

“Hàng xóm” của Hàn Quốc là Nhật Bản cũng không hề kém cạnh trong việc kiểmsoát lạm phát. Nhật Bản luôn là một trong những quốc gia trên thế giới ổnđịnh nhất về giá cả các loại hàng bán lẻ và cách làm dẫn đến sự thành côngđó là: coi trọng tính ổn định trong việc cung cấp các sản phẩm cần thiết chocuộc sống.

Chính phủ kiểm soát khâu lưu thông và đưa ra mức giá của hàng hóa, kiểmsoát, điều tiết hiệu quả việc sản xuất và khâu thị trường. Hiện nay ở một sốnơi đã xây dựng các trung tâm cung cấp sản phẩm hàng bán lẻ quy mô lớn đểtiện cho chính phủ trong việc kịp thời, nắm bắt tình hình, tạo cơ sở  nhanhchóng ổn định giá cả.

Một biện pháp khác mà Nhật Bản sử dụng là xây dựng,kiện toàn hệ thống mạng thông tin, kịp thời công khai các thông tin về thịtrường để phòng ngừa lạm phát và các hành động cạnh tranh không lành mạnh.

Trong khi đó, quốc gia sát sườn với Việt Nam là Thái Lan thực hiện kết hợpkiểm soát đồng bộ để giá cả không tăng nhanh. Coi lương thực, rượu, sữa,bình ắc-quy, bốn loại hàng hoá thuộc vào những mặt hàng bắt buộc chịu sựquản lý về sản xuất, kinh doanh, bất cứ hành vi tăng giá những mặt hàng nàyđều phải được sự cho phép của Bộ Thương mại.

Kế hoạch "lá cờ xanh” do Chínhphủ Thái Lan đề ra yêu cầu các hãng cung ứng hàng hóa phải đưa ra thị trườngcác loại thực phẩm và đồ đi kèm với sự tiện lợi về dịch vụ giao hàng và giáphải rẻ hơn những cửa hàng thông thường.

Theo Phan Anh
Đất Việt