“BĐS đang gia tăng khiến tôi ngày càng sợ hơn, đi đâu cũng thấy công trình.Phải chăng vốn đang đổ quá nhiều vào BĐS thay vì tăng vào sản xuất để cânbằng” - Giáo sư Michael Porter - “cha đẻ” của “Chiến lược cạnh tranh” nhậnđịnh về kinh tế Việt Nam.
Đầu tư nhiều nhưng…
Báo cáo Năng lực cạnh tranh Việt Nam 2010 có thể coi là báo cáo đầu tiêncấp quốc gia của Việt Nam về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Báocáo được xây dựng bởi Viện Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) và Học việnNăng lực cạnh tranh châu Á phối hợp thực hiện. Giáo sư Michael Porter,“cha đẻ” của chiến lược cạnh tranh chính là người chỉ đạo trực tiếp việcthực hiện báo cáo này.
Theo báo cáo, chính sách kinh tế vĩ mô trongnhững năm gần đây của Việt Nam hiện đang là một điểm yếu lớn. Chính sáchtài khoá của Việt Nam đang bị cản trở rất nhiều bởi các thâm hụt của khuvực Nhà nước.
Áp lực liên tục lên tỷ giá, tỷ lệ lạm phát cao, cũng như sự phát triểnnóng của thị trường tài chính trước khi nổ ra khủng hoảng tài chính toàncầu là những dấu hiệu về một chính sách tiền tệ còn có vấn đề.
![]() |
Giáo sư Michael Porter, “cha đẻ” của chiến lược cạnh tranh |
Trong khi đó, các khoản đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng, đường xá, cảng,sân bay, năng lượng… đã được thực hiện, nhưng tác động kinh tế - xã hộicủa các công trình đem lại chưa rõ do hiệu quả thấp và thiếu trọng tâm,trọng điểm trong đầu tư.
GS. Michael Porter nhận định, câu chuyện “ngoạn mục” của Việt Nam làtăng trưởng kinh tế, có sức bật lớn trong khủng hoảng. Song thách thứclà cho dù có tăng trưởng nhưng chỉ duy trì mức thịnh vượng cũng như năngsuất nền kinh tế đều thấp.
Báo cáo cũng cho thấy, tăng trưởng của nền kinh tế trong nước đang ngàycàng phụ thuộc vào tăng vốn đầu tư, mà thiếu lực đẩy từ nhân tố lao độngvà năng suất các nhân tố tổng hợp, những nội lực tạo nên sức cạnh tranhcủa nhiều nước phát triển và đang phát triển khác.
Theo số liệu thống kê thời kỳ 2006 - 2010, tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hộiso với GDP luôn ở mức trên 40%, cao hơn nhiều so với các nước côngnghiệp mới có cùng giai đoạn phát triển. Tuy nhiên, hiệu quả đầu tư lạichưa phát huy rõ rệt đến đời sống kinh tế, xã hội.
Tham nhũng là vấn đề lớn
Không những vậy, Việt Nam còn đang phải đối mặt với khó khăn do chưaphát triển kinh tế cụm ngành, chúng ta mới chỉ là nhập về lắp ráp vàxuất khẩu, nên không thể tăng năng suất lao động và tăng lương.
GS.Michael Porter đưa ra ví dụ, Thái Lan có cụm ngành ô tô rất có năng lựccạnh tranh. Nếu hạ thuế quan thì sẽ không có nhà đầu tư nào vào Việt Nambởi dù lương thấp nhưng năng suất cũng thấp thì không ai quan tâm.
![]() |
Năng lực cạnh tranh của Việt Nam không có lợi thế độc đáo |
Các công ty đa quốc gia đến Thái Lan vì họ thấy đó là điểm sản xuất tậptrung theo cụm có tác động đến năng suất, trong khi ở Việt Nam thì chỉdựa vào từng doanh nghiệp đơn lẻ. Điều này đặt ra vấn đề muốn phát triểncần phải tạo được môi trường kinh doanh năng suất cao, đổi mới công nghệđể tăng năng suất.
Đáng chú ý, tỉ lệ đầu tư so với GDP của Việt Nam đang giảm nên muốn duytrì tăng trưởng thì phải đầu tư nhiều thêm. Không những vậy, hơn 60%doanh nghiệp được hỏi cho biết đang khó khăn trong tìm lao động, đấy làchưa kể đến những bất cập về hạ tầng như thiếu điện…
“BĐS đang gia tăng khiến tôi ngày càng sợ hơn, đi đâu cũng thấy côngtrình. Phải chăng vốn đang đổ quá nhiều vào BĐS thay vì tăng vào sảnxuất để cân bằng kinh tế. Bên cạnh đó, chúng ta thu hút nhiều FDI nhưngcó khoảng cách lớn giữa cam kết và thực hiện” - GS. Michael Porter nói.
Nhận định về tình hình, Giáo sư cho rằng, môi trường hành chính vẫn chưađược thông thoáng, điều này làm hạn chế sức hấp dẫn của Việt Nam đối vớicác nhà đầu tư...
Không những vậy, năng lực cạnh tranh của Việt Nam đáng tiếc là không cólợi thế độc đáo. Đặc biệt là tham nhũng là vấn đề quá lớn mà Việt Namcần phải cố gắng vượt qua. “Vì vậy, Việt Nam cần phải chuyển dịch sangmột giai đoạn phát triển mới” - giáo sư khẳng định.
|
Theo Lan Hương
Dân trí