Đến cuối năm tỷ giá biến động tối đa 1% - đó là khẳng định của Thống đốcNgân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình trong cuộc trả lời phỏng vấn của chúng tôiđầu tuần này.

Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình

Ông nhấn mạnh ổn định giá trị đồng Việt Nam là mục tiêu trọng tâm của chính sáchtiền tệ trước mắt cũng như lâu dài. Bắt đầu bằng một vấn đề nóng: giá vàng, ôngnói: 

Giá vàng trong nước bất ngờ cao hơn giá thế giới từ 0,8 đến 1,2 triệuđồng/lượng, không loại trừ có yếu tố đầu cơ, tạo sóng. Mấy tháng trở lại đâychúng ta rục rịch thay đổi chính sách quản lý vàng, nhưng trên thực tế chưa cógì thay đổi. Từ tháng 4-2011 chỉ có một kịch bản đơn thuần là giá vàng trongnước thấp hơn giá quốc tế, nó cho thấy hiện tượng nắm giữ, tích trữ vàng đã cócải thiện đáng kể. Người dân đã chọn thời điểm giá cao để bán ra.

Thưa ông bây giờ, ngay lúc này, người dân lại không bán nữa, họ đổ xô đimua…

Họ mua, theo tôi có hai nguyên nhân. Thứ nhất giá vàng quốc tế lên nhanh quá,tăng chóng mặt và những dự báo giá có thể còn lên nữa. Điều này khiến nhữngngười muốn bán vàng không vội bán ra, giữ và nghe ngóng thêm. Người chưa cóvàng, thì có thể muốn mua và đi mua. Từ đây cung ít đi, cầu nhiều lên, tạo ragiá mới so với giá trước đó.

Thứ hai và có thật là sự làm giá của giới đầu cơ. Họ đã chọn đúng thời điểm giávàng quốc tế bùng phát để làm giá, tạo ra khan hiếm, khó mua vàng.

Nhận ra sự tham gia của yếu tố đầu cơ, NHNN xử lý như thế nào?

Chúng ta không phải là một nước sản xuất vàng và việc giá vàng trong nước biếnđộng phù hợp theo giá thế giới phản ánh đúng bản chất kinh tế của nó. Nhiệm vụcủa NHNN là làm sao ngăn chặn được hoạt động đầu cơ, làm giá trên thị trường,gây thất thiệt cho người nắm giữ cũng như mua bán vàng. Trong khi chờ qui địnhmới về vàng, NHNN đảm bảo cung cầu ở mức hợp lý, trong mọi trường hợp giá nộiđịa không cao hơn giá vàng quốc tế.

Bằng cách nào thưa ông?

Thời gian qua chúng ta đã xuất khoảng 40 tấn vàng, thu về một lượng ngoại tệtương đối, giúp ổn định thị trường ngoại hối. Nay để bảo vệ quyền lợi người dânđang nắm giữ vàng, bình ổn thị trường, NHNN sẵn sàng cho nhập vàng và đã cấpquota cho nhập ngay 10 tấn. 

Đang có ý kiến cho rằng sự biến động của giá vàng có một phần tác động củaviệc mới đây Nhà nước áp dụng thuế xuất khẩu 10% cho các sản phẩm nữ trang cóhàm lượng vàng từ 80% trở lên. Ông có đồng tình với ý kiến này?

Chúng ta đang xây dựng một khung pháp lý quản lý vàng theo hướng hoàn thiện,thông thoáng hơn, làm sao để thị trường có thể hoạt động theo qui luật của nó,mà vẫn kiểm soát được. Xung quanh khung pháp lý còn nhiều ý kiến khác nhau, thậmchí nhạy cảm và chúng tôi đang cân nhắc một cách thận trọng.

Phải thừa nhận hoạt động xuất khẩu vàng vừa qua là tích cực và ở một chừng mựcnào đó nó phản ánh đúng mong muốn của chúng ta. Hiện chưa có thống kê chính xáclượng vàng trong dân. Đánh giá sơ bộ của chúng tôi khoảng 300 - 500 tấn. Do đósố lượng xuất vừa rồi chưa phải là nhiều. Trong khi chúng ta muốn tạm thời huyđộng vàng trong dân, biến nó thành vốn “sống” phục vụ nền kinh tế.    

Vậy thì có nên áp thuế xuất vàng cho nữ trang? Ai cũng biết lợi nhuận từ chế tácnữ trang khó đạt mức 10%, còn để ngăn chặn sự biến tướng xuất vàng nguyên liệu,thì xuất phát từ quan điểm nào? Phải chăng là e ngại cho phép xuất nhiều, maimốt hết vàng?

Trong khi chưa có khung pháp lý như tôi đã nói ở trên, cũng phải xem xuất nhậpkhẩu vàng là hoạt động bình thường của nền kinh tế. Qui định của Bộ Tài chính làngăn xuất vàng nguyên liệu dưới dạng trang sức. Tới đây sẽ có những qui định phùhợp cho xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu.

Ông có thể “bật mí” qui định mới phù hợp đến mức độ nào không?

Theo dự thảo nghị định mới về quản lý vàng, cơ quan duy nhất được phép xuất khẩuvàng là NHNN. NHNN sẽ sử dụng quyền này một cách linh hoạt. Có thể NHNN trựctiếp xuất, hoặc có thể ủy quyền cho một số doanh nghiệp, tổ chức tín dụng thaymặt NHNN thực hiện, không phải như hiện nay ai có vàng người nấy xuất, mạnh ainấy xuất. Sau này sẽ chỉ có NHNN xuất, NHNN nhập.

Có nghĩa NHNN xuất, nhập và biến các doanh nghiệp, ngân hàng đủ tiêu chuẩn thànhcác chân rết “làm công ăn lương” và họ được hưởng một mức phí nhất định?

Những doanh nghiệp, ngân hàng đáp ứng được các tiêu chí, sẽ được NHNN chọn thumua vàng trong dân cho NHNN và có thể được NHNN ủy quyền cho xuất vàng đó.

Tức là NHNN sẽ ấn định giá vàng, chẳng hạn giá thu mua trong dân, dựa trênbiến động giá thế giới?

Đây là vấn đề còn nhiều bàn luận. Dựa trên định hướng chỉ đạo của Chính phủ,NHNN sẽ có qui định về giá cả, giống như qui định về tỷ giá trên thị trườngngoại hối.

Nói đến ngoại hối, biến động giá vàng đang trực tiếp ảnh hưởng đến tỷ giá…  

Mục tiêu đối với ngoại tệ trong thời gian tới là ổn định giá trị đồng Việt Nam.Ổn định chứ không phải cố định. Ổn định là không làm cho nó biến động nằm ngoàitầm kiểm soát hoặc biến động với mức độ lớn mà dân không lường được, doanhnghiệp, Nhà nước cũng không lường được. Đây là trọng tâm của chính sách tiền tệtừ nay đến hết năm và những năm sắp đến.

Cơ sở nào làm nền tảng cho sự ổn định chứ không phải cố định đó, thưa ông?

Cần phải nhìn nhận lại chúng ta chưa thực sự quantâm đến vị thế của đồng ViệtNam. Chúng ta sẵn sàng phá giá đồng nội tệ để đánh đổi lấy mọi thứ khác. Có thờiđiểm chúng ta tạo ra một mặt bằng lãi suất làm cho tiền đồng tương đối bị nớilỏng, từ đó nền kinh tế phát triển theo nghĩa thăng hoa. Đổi lại, hậu quả tiêucực của nó là làm đồng Việt Nam ngày càng mất vị thế. Nói một cách khác, niềmtin vào giá trị của đồng Việt Nam bị ăn mòn.

Nay chúng ta phải lập lại niềm tin đó, khẳng định lại bảo vệ giá trị đồng ViệtNam là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa sống còn trong ổn định kinhtế vĩ mô.

Bảo vệ giá trị đồng tiền được bắt đầu từ đâu thưa Thống đốc?

Vừa qua chúng ta đã thiết lập được quan hệ hợp lý hơn trong lãi suất. Lãi suấttiết kiệm tiền đồng ít nhất hiện nay là 14%/năm, ngoại tệ 2%/năm. Tôi biết rằngđến giờ phút này các ngân hàng đã lách và họ trả cho người dân còn cao hơn mứcđó. Giả định ngân hàng trả lãi suất đô la Mỹ tới 4%/năm, chênh lệch lãi suất vẫncòn 10%/năm.

Trong một thời gian dài, chúng ta để đồng Việt Nam tương đối cao giá trong tươngquan sức mua với các đồng tiền khác, đặc biệt với đô la Mỹ. Tuy nhiên trong đợtđiều chỉnh mạnh tháng 2-2011, ta đã làm cho tỷ giá thực của đồng nội tệ cân bằngvới đồng đô la Mỹ.

Từ tháng 2 đến nay, tỷ giá thực của đồng Việt Nam đã lên giá đôi chút. Trongtrường hợp NHNN thấy cần phải xem xét điều chỉnh tỷ giá, thì chúng tôi cũng sẽđiều chỉnh không quá 1% từ nay đến cuối năm. Thậm chí NHNN sẽ để cho đồng ViệtNam lên giá một chút nữa.

Theo ông, giữ tiền đồng hiện nay là tốt nhất?

Đúng vậy! Tôi tin hiện tượng người dân đổ xô đi mua ngoại tệ sẽ không lặp lạinữa. Hiện tượng đô la hóa sẽ giảm mạnh. Tất nhiên, mới từ tháng 2 đến nay ngườidân đã, đang và sẽ còn nghe ngóng, mức độ tin tưởng vào chính sách của mỗi ngườikhác nhau. Nhưng tôi tin nếu kiên trì chính sách này, niềm tin vào đồng Việt Namsẽ ngày càng lớn.                

Giả sử có đầu cơ ngoại tệ, hoặc tỷ giá biến động quá nhanh, bất thường, thìđến mức nào NHNN sẽ can thiệp? Mức tăng/giảm 200 đồng/đô la Mỹ/ngày như đầutuần liệu đã đủ để phải can thiệp chưa, thưa ông?

Những tháng qua tỷ giá ổn định, hoạt động đầu cơ không có đất dụng võ. Đầu tuầnnày do giá vàng biến động, giới đầu cơ cả trên thị trường liên ngân hàng lẫn thịtrường tự do tranh thủ tạo sóng. Trên thực tế, nhu cầu ngoại tệ thanh toán nhậpkhẩu hiện nay không cao. Thậm chí nhập khẩu xăng dầu cũng không có nhu cầu muangoại tệ.

Chúng tôi chưa can thiệp vào thị trường ngoại tệ liên ngân hàng vì tỷ giá tuy códao động theo hướng đô la Mỹ lên giá so với tiền đồng, song vẫn còn nằm trongbiên độ cho phép. Trước đó tỷ giá giao dịch liên ngân hàng nằm khá xa mức trần.Nếu chúng ta điều hành tốt thị trường vàng thì tôi tin tỷ giá sẽ mau chóng trởlại mức cũ. 

Phải nhìn nhận thẳng thắn vừa qua không ít lần hiện tượng làm giá xuất hiện trênthị trường liên ngân hàng và tỷ giá cũng biến động tới 100-200 đồng/đô laMỹ/ngày, nhưng nó không thể cưỡng lại chiều hướng chung. Còn khi cung cầu có vấnđề, NHNN sẽ can thiệp mà động thái trực tiếp là bán ra ngoại tệ. Dự trữ ngoạihối hiện nay cho phép chúng ta đủ sức can thiệp ở mức cần thiết. Ngoài ra, nếucần NHNN sẽ xem xét tương quan lãi suất tiền đồng để hỗ trợ tỷ giá.

Fitch Ratings đã xếp loại nợ bằng tiền đồng (VND) và ngoại tệ của Việt Nam có mức tín nhiệm B+ (giảm 4 bậc so với mức cũ là BB-).

Đây là mức ngang với Mông Cổ và Venezuela, nhưng kém các nước như Philippines và Indonesia. Fitch Ratings nói triển vọng của mức đánh giá này là ổn định.

Andrew Colquhoun - người đứng đầu bộ phận đánh giá mức độ khả tín của các quốc gia Châu Á - Thái Bình Dương của Fitch - nói: “Mức độ khả tín quốc gia của Việt Nam vẫn chịu sức ép do có những rủi ro tiềm tàng đối với ổn định kinh tế do tình trạng lạm phát cao và những vấn đề còn chưa được giải quyết trong ngành ngân hàng. Nếu chính phủ tiếp tục thực thi các biện pháp thắt chặt tiền tệ được thông qua hồi tháng 2/2011, mức độ khả tín hiện nay sẽ được duy trì. Nếu không, sức ép tiêu cực đối với mức độ tín nhiệm sẽ gia tăng”.

Theo Lao Động

Theo Hải Lý
TBKTSG