Đó là một loại bánh chân chất như tên gọi vốn có của nó:
“sắn đập”. Cho đến giờ, tôi vẫn nhớ như in dáng người nghiêng nghiêng,
bước chân vội vã của má khuất sau bụi tre làng với sọt sắn (khoai mì)
đập bên hông để kịp phiên chợ.
Trong ký ức tuổi thơ tôi, ngày còn ở quê, vạt rẫy sau nhà bao giờ cũng
trồng vài đám sắn. Mà đâu phải riêng gì nhà tôi, cả xóm quê nghèo ngày
ấy, nhà nào ít thì chỉ một đám sắn trong vườn, nhiều đến cả rẫy sắn. Từ
củ sắn, các bà, các chị chế biến rất nhiều món ăn như xôi sắn, sắn
nướng, sắn luộc... Riêng má tôi, sở trường là món sắn đập.
Tôi không còn nhớ quầy sắn đập của má có từ bao giờ, chỉ biết trong
những ngày kinh tế còn khó khăn, gia đình tôi sống nhờ vào sọt sắn đập
của má. Ngày nào cũng vậy, mỗi buổi vào phiên chợ là cả nhà lại bận rộn
cùng má làm sắn đập.
Rất giản dị, sắn đập được làm từ sắn, nhưng quan trọng nhất lại là cách
chọn loại sắn để nấu. Trước khi làm sắn đập, má tự tay chọn những củ sắn
dẻo, ít tinh bột, mới được đào ngoài rẫy về. Sau đó má ngồi tỉ mẩn lột
vỏ và rửa sạch, cắt đoạn vừa, để ráo. Mặc dù đã phân công mọi người làm
từng việc nhưng má đều phải kiểm tra kỹ lưỡng từng công đoạn. Sắn để ráo
dùng chày gỗ đập sao cho củ sắn dẹp ra. Xếp thứ tự từng củ sắn dẹp vào
xửng hấp cách thủy. Má không quên rải lên trên sắn một ít cơm dừa nạo
thành sợi trước khi hấp. Sắn được hấp chín, má cho tất cả vào sọt đậy
kín để giữ được độ nóng. Hồi học cấp II, thỉnh thoảng tôi được má cho ra
quầy, nói là quầy vậy thôi chứ chỉ là quán hàng rong nhỏ bên góc chợ.
Đồ nghề chỉ là một cái sọt đựng bánh, một sọt đựng những thứ linh tinh:
đĩa, muỗng, lọ muối vừng (đường, đậu phộng)… được làm sẵn và vài cái ghế
nhỏ. Khi có khách, má cười vồn vã, lấy từng lát sắn đập trắng phau còn
nóng hổi thơm lừng mùi bột quyện với mùi nắng, cho vào miếng lá chuối
rồi thêm một ít dừa sợi, dầu hành và muối vừng. Sắn đập má làm dân dã là
vậy mà quán lúc nào cũng đông, sọt bánh nhanh chóng vơi đi theo tiếng
nói cười rôm rả.
Từ ngày tôi vào thành phố trọ học, sọt bánh má gánh ra chợ mỗi sớm
dường như thêm nặng trĩu trên con đường làng. Biết sinh viên chúng tôi
thiếu thốn đủ mọi bề nên mỗi lần về thăm nhà, má lại làm thêm sắn đập,
gửi cho tụi bạn gọi là quà quê. Ra bến xe đò, tôi thường xách lỉnh kỉnh
nhiều thứ nhưng lại vui đáo để, chỉ trong chốc lát giỏ sắn đập được cả
bọn cùng phòng “xử” nhanh gọn, vậy mà có đứa còn thòm thèm, thế mới biết
tài nấu nướng của má.
Cũng đã từ lâu rồi tôi không còn thói quen cùng má dậy sớm để chuẩn bị
sọt bánh cho buổi chợ. Những khi trời mưa gió, dù biết rằng chẳng giúp
gì nhiều cho má nhưng cứ mong được chạy về, chỉ để quanh quẩn bên bếp
nhỏ, chỉ để được nhìn thấy nụ cười bình yên của má bên sạp sắn đập nơi
góc chợ.