Tây Bắc không chỉ nổi tiếng vớinúi non hùng vĩ, người xinh, nơi đây còn là quê hương của những món ăn độc đáo,trong đó có món rêu suối đã gắn bó với đồng bào tự bao đời.
Địa hình Tây Bắc có rất nhiềusông suối với những tảng đá lớn nhỏ. Đây là điều kiện thuận lợi cho rêu pháttriển. Đi lấy rêu tập thể là một nét văn hóa thú vị của người Tây Bắc. Rêu đượclấy ở những đoạn sông suối có độ sâu từ 0,4-1m là loại thực phẩm có từ xa xưađược đồng bào các dân tộc như Thái, Mông, Mường... ưa thích.
![]() |
Theo các già làng, rêu suối khôngchỉ ăn ngon mà còn rất tốt cho sức khỏe. Với đồng bào các dân tộc Tây Bắc, nhắcđến rêu suối là nhắc đến một món ăn thường ngày quen thuộc. Rêu suối có thể chếbiến thành rất nhiều món ăn ngon và độc đáo, như nướng, nấu canh, xào, làm bánh…
Rêu suối chia làm ba loại; Loạimọc trên đá thành sợi như sợi tóc, màu hơi sẫm có thể làm món nộm; Rêu mọc rờirạc có màu xanh và rêu mọc ở các khe suối không bám chặt vào đá. Rêu sạch và nonthường có tại các khe suối, nơi có dòng chảy.
Mùa rêu mọc rất ngắn nên đồng bàothường tranh thủ lấy về, ăn không hết phơi khô làm thức ăn dự trữ cho mùa đông.Rêu có thể thay món rau và cũng được chế biến trong tiệc cưới, lên nhà mới haytrong các dịp có lễ hội…
Việc chế biến rêu để ăn của cácdân tộc gần giống nhau. Song, quan trọng nhất là xử lý ban đầu. Người ta đặt rêulên những tảng đá nhẵn, rộng, vừa dùng thanh tre, gỗ đập, vừa nhặt gốc rêu, sạn,sỏi. Sau đó cho rêu vào xá, khiếng (dụng cụ rửa rau), rửa cho đến lúc nướctrong. Ủ muối nhạt 10 - 15 phút rồi rửa lại. Rêu thường nấu với xương hầm haynước luộc gà, nộm rêu non…
Đặc sắc nhất phải kể đến món rêunướng. Đây là món ăn hấp dẫn, hợp khẩu vị với nhiều người. Rêu nướng có mùi vịđặc trưng, đặc biệt khoái khẩu với người uống rượu. Ngoài ra rêu suối còn thíchhợp làm nhân bánh, xào thịt trâu, thịt bò thay các món rau bình thường…
Đậm đà trong mâm rượu hứa hôn củacác đôi trai gái vùng cao, món rêu suối làm tăng thêm sự đa dạng và phong phúcho văn hóa ẩm thực của đồng bào Tây Bắc.
Theo Văn Trương
Dân Việt