Chiến lược "đàm phán" và "đe dọa vũ lực" của Trung Quốc

Tiến sĩ Nguyễn Toàn Thắng, Khoa Pháp luật quốc tế ĐH Luật Hà Nội, từng bảo vệ thành công luận án tiến sĩ về Luật Biển tại Bỉ. Tòa soạn trích đăng bài viết của ông gửi đến VnExpress nhân sự kiện tàu Bình Minh 02.

"Nếu các nước ASEANkhông thống nhất quan điểm, Trung Quốc sẽ có nhiều lợi thế để thực hiện chiếnlược của mình, phân hóa ASEAN, tiến tới giành quyền kiểm soát thật sự trên BiểnĐông", Tiến sĩ Nguyễn Toàn Thắng phân tích.

Tiến sĩ NguyễnToàn Thắng, Khoa Pháp luật quốc tế - ĐH Luật Hà Nội, từng bảo vệ thành công luậnán tiến sĩ về Luật Biển tại Bỉ. Tòa soạn trích đăng bài viết của ông gửi đếnVnExpress nhân sự kiện tàu Bình Minh 02.

Đánh giá mụcđích chiến lược của Trung Quốc

Chiến lược "đàm phán" và "đe dọa vũ lực" của Trung Quốc
 Tiến sĩ Nguyễn Toàn Thắng. Ảnh: T.D.

Về phương diệnpháp lý quốc tế, Trung Quốc không thể biện minh cho hành vi vi phạm luật quốc tếcủa ba tàu hải giám Trung Quốc. Vậy mà Trung Quốc vẫn "ngang nhiên" cho rằngnhững tàu đó đang thực hiện "hoạt động chấp pháp bình thường" trên biển. Kết nốisự kiện tàu Bình Minh 02 với các hoạt động của Trung Quốc trên Biển Đông trongthời gian qua, có thể thấy rõ cách hành xử và ý định của Trung Quốc.

Thử thái độViệt Nam và các nước ASEAN: Với hành động trực tiếp xâm phạm vùng đặc quyềnkinh tế và thềm lục địa Việt Nam, Trung Quốc đã tiến thêm một bước mới trong "phépthử" Việt Nam và ASEAN để dần "hiện thực hóa" tham vọng tại Biển Đông, nhằmkhẳng định cái mà Trung Quốc gọi là "chủ quyền" của họ. Mức độ phản ứng của ViệtNam và ASEAN trong trường hợp này sẽ là cơ sở để Trung Quốc xem xét các bước đitiếp theo. Nếu Việt Nam phản ứng không dứt khoát, không kiên quyết bảo vệ quyềnchủ quyền và quyền tài phán của mình; nếu ASEAN giữ quan điểm "không can thiệp"và nếu các quốc gia Đông Nam Á chỉ đứng ngoài "quan sát", Trung Quốc sẽ tiếp tụccó những hành động tương tự trong thời gian tới. Với lộ trình xây dựng Cộng đồngASEAN vào năm 2015, ASEAN cần chứng tỏ vai trò của một tổ chức quốc tế khu vực,bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các quốc gia thành viên.

Mục tiêu hiệnthực hóa "đường lưỡi bò", tiến tới bá chủ trên Biển Đông: Trong thời gianqua, Trung Quốc thường thực hiện các hành vi "gây hấn" tại những vùng biển tranhchấp. Đây là lần đầu tiên Trung Quốc công khai phá hoại, cản trở hoạt động thămdò khai thác dầu khí bình thường của Việt Nam tại vùng đặc quyền kinh tế và thềmlục địa Việt Nam, đồng thời "ngang nhiên" tuyên bố đó là "khu vực tranh chấp", "khuvực thuộc quyền quản lý" của Trung Quốc. Hành động trên cho thấy Trung Quốc đangcố tình đánh lạc hướng dư luận, khiến cộng đồng quốc tế hiểu lầm Việt Nam vàtình hình trên Biển Đông. Đây là bước leo thang mới của Trung Quốc, thể hiện rõtham vọng kiểm soát toàn bộ vùng biển này mà trước hết là mục tiêu của TrungQuốc trong việc: biến việc tàu hải giám Trung Quốc thực hiện hành vi vi phạmquyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam tại vùng đặc quyền kinh tế vàthềm lục địa Việt Nam thành việc tàu thăm dò Việt Nam xâm phạm vùng biển củaTrung Quốc; biến các vùng biển thuộc quyền chủ quyền của Việt Nam, thiết lập phùhợp với quy định của Công ước Luật biển năm 1982, thành "vùng biển thuộc quyềnquản lý" của Trung Quốc – một khái niệm chưa từng tồn tại và không được ghi nhậntrong Công ước Luật biển năm 1982; biến khu vực không có tranh chấp, hoàn toànthuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, thành khu vực tranh chấp.Trung Quốc đang cố gắng tạo ra tiền lệ về tranh chấp trên một khu vực vốn khônghề có tranh chấp, tiến tới "tranh chấp hóa" toàn bộ Biển Đông. Đây là chiến lượccủng cố và hiện thực hóa yêu sách "đường lưỡi bò" mà Trung Quốc đã chính thứctuyên bố năm 2009. Vì vậy, Việt Nam và các nước ASEAN cần có thái độ cương quyếttrước "phép thử" của Trung Quốc.

Chiến lược "đàm phán" và "đe dọa vũ lực" của Trung Quốc
Vị trí tàu Bình Minh 02 bị cắt cáp địa chấn. Ảnh: Bộ Ngoại giao.

Chiến lược "đàmphán" và "đe dọa sử dụng vũ lực" của Trung Quốc: Hành động của Trung Quốctrong vụ Bình Minh 02 là tương đối nhất quán với cách ứng xử của quốc gia nàytrong thời gian gần đây. Một mặt, Trung Quốc thể hiện ý định giải quyết thôngqua đàm phán song phương, không muốn mở rộng vấn đề theo cách mà Trung Quốc gọilà "gây không khí căng thẳng", mặt khác Trung Quốc tiến hành các biện pháp "gâyhấn" trên thực địa, ra dấu hiệu mạnh mẽ về quân sự để khẳng định vai trò củamình. Chiến lược này được Trung Quốc áp dụng không chỉ đối với Việt Nam mà đốivới các quốc gia ASEAN khác. Vì vậy, nếu các nước ASEAN không thống nhất quanđiểm, Trung Quốc sẽ có nhiều lợi thế để thực hiện mục tiêu của mình, phân hóacác nước ASEAN, tiến tới giành quyền kiểm soát thật sự trên Biển Đông.

Các giải phápcho Việt Nam

Là thành viên củaHiến chương Liên hợp quốc, Công ước Luật biển năm 1982 cũng như Tuyên bố về ứngxử của các bên tại biển Đông (DOC), Việt Nam luôn tuân thủ các quy định của luậtquốc tế, kiên trì con đường hòa bình, giải quyết các vấn đề phát sinh trên cơ sởbình đẳng và tôn trọng lẫn nhau. Đối với các tranh chấp trong Biển Đông, ViệtNam luôn giải quyết bằng biện pháp hòa bình, không sử dụng vũ lực và không cóhành động làm phức tạp thêm tình hình.

Tuy nhiên, tại cácvùng biển không phải là khu vực tranh chấp, hoàn toàn thuộc quyền chủ quyền vàquyền tài phán của quốc gia ven biển, Việt Nam có quyền áp dụng các biện phápcần thiết, phù hợp với quy định của Công ước Luật biển năm 1982 để bảo vệ quyềnvà lợi ích hợp pháp, buộc các chủ thể vi phạm phải tuân thủ và tôn trọng. Điều73 của Công ước quy định "Trong việc thực hiện các quyền thuộc chủ quyền (…)của vùng đặc quyền về kinh tế, quốc gia ven biển có thể thi hành mọi biện phápcần thiết, kể cả việc khám xét, kiểm tra, bắt giữ và khởi tố tư pháp để bảo đảmviệc tôn trọng các luật và quy định mà mình đã ban hành theo đúng Công ước".

Trước tham vọngkiểm soát Biển Đông, hiện thực hóa "đường lưỡi bò" của Trung Quốc, Việt Nam cầncó những biện pháp thích đáng ở các cấp độ khác nhau: song phương, khu vực vàtoàn cầu. Một măt, chúng ta kiên trì theo đuổi các biện pháp hòa bình, phù hợpvới quy định của luật quốc tế, đặc biệt là Công ước Luật biển năm 1982, nhưngkiên quyết, không khoan nhượng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đãđược Công ước thừa nhận.

Mặt khác, Việt Namcần sử dụng hiệu quả cơ chế khu vực, thông qua vai trò của ASEAN để giải quyếtvấn đề Biển Đông. Với tư cách là tổ chức quốc tế khu vực Đông Nam Á, ASEAN cầncó tiếng nói, thể hiện rõ quan điểm đối với hành vi vi phạm luật quốc tế củaTrung Quốc, xâm phạm đến quyền chủ quyền và quyền tài phán của một quốc giathành viên ASEAN – Việt Nam. Trên thực tế, Trung Quốc đã, đang và sẽ áp dụngchính sách vừa "xoa dịu", vừa "đe dọa" đối với từng quốc gia thành viên ASEAN đểthực hiện tham vọng tại Biển Đông. Vì vậy, sự đồng thuận của 10 quốc gia ASEANtrong thời điểm này là hết sức cần thiết, và đó sẽ là một điểm tựa vững chắc đểđối phó với chính sách ngày càng leo thang của Trung Quốc. Bên cạnh đó, Việt Namcần tranh thủ sự ủng hộ của các nước tại các diễn đàn đa phương, đặc biệt làLiên hợp quốc để cộng đồng quốc tế hiểu đúng về tình hình Biển Đông, hiểu đúngchiến lược "tranh chấp hóa" Biển Đông của Trung Quốc, cũng như hành vi vi phạmcủa Trung Quốc tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam.

Dưới góc độ luậtquốc tế, Việt Nam và Trung Quốc có thể thỏa thuận đưa vụ việc ra giải quyết tạicơ quan tài phán quốc tế. Trong trường hợp không có thỏa thuận của Trung Quốc,Việt Nam có quyền khởi kiện theo cơ chế của Công ước Luật biển năm 1982, buộcquốc gia này bồi thường thiệt hại cho phía Việt Nam.

Chiến lược "đàm phán" và "đe dọa vũ lực" của Trung Quốc
Tàu hải giám Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh 02 sáng 26/5. Ảnh: Mỹ Giang

Trong vụ Bình Minh02, tàu hải giám Trung Quốc thực hiện hành vi cắt cáp, cản trở hoạt động thăm dòkhai thác dầu khí của tàu Bình Minh 02 tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lụcđịa Việt Nam. Đối với Việt Nam, hành động của Trung Quốc là vi phạm quyền chủquyền và quyền tài phán của Việt Nam, phù hợp với quy định tại các điều 56, 58,76 và 77 của Công ước Luật biển năm 1982. Trong khi đó, Trung Quốc cho rằng "việcphía Việt Nam tiến hành hoạt động thăm dò dầu khí tại vùng biển do Trung Quốcquản lý đã làm tổn hại lợi ích và quyền quản lý của Trung Quốc". Hành độngcủa phía Trung Quốc là "hoạt động giám sát và chấp pháp trên biển" trong vùngbiển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc. Như vậy, tranh chấp phát sinh giữaViệt Nam và Trung Quốc liên quan đến việc giải thích và áp dụng các điều 56, 58,76 và 77 của Công ước về việc thực hiện quyền chủ quyền của quốc gia ven biểnđối với hoạt động thăm dò khai thác nguồn tài nguyên dầu khí ở đáy biển và lòngđất dưới đáy bên dưới vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Tranh chấp nàykhông liên quan đến các tranh chấp được đề cập trong tuyên bố ngày 25/8/2006 củaTrung Quốc, cụ thể (i) không liên quan đến vấn đề phân định biển; (ii) khôngliên quan đến hoạt động quân sự; (iii) không liên quan đến hoạt động nghiên cứukhoa học biển; (iv) không liên quan đến hoạt động đánh bắt hải sản và (v) khôngthuộc thẩm quyền của Hội đồng bảo an. Việt Nam và Trung Quốc đều không có tuyênbố lựa chọn các cơ quan tài phán nên sẽ được xác định là chấp nhận thẩm quyềncủa Tòa án trọng tài thành lập theo Phụ lục VII của Công ước. Vì vậy, Việt Namcó thể chuẩn bị hồ sơ, khởi kiện Trung Quốc theo thủ tục trọng tài nói trên.

Tóm lại, việcTrung Quốc cho tàu hải giám căt cáp thăm dò, cản trở hoạt động của tàu Bình Minh02 khi tàu này đang hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa ViệtNam là hành vi vi phạm nghiêm trọng Công ước Luật biển năm 1982. Tuy nhiên, đâycó thể chỉ là bước "khởi đầu" của chiến lược hiện thực hóa "đường lưỡi bò" củaTrung Quốc. Trước nguy cơ này, Việt Nam cần thể hiện thái độ kiên quyết, giảiquyết mọi xung đột, mâu thuẫn bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng lẫnnhau và tuân thủ luật pháp quốc tế, nhưng đấu tranh không khoan nhượng, thựchiện mọi biện pháp cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích quốc gia, mà cụ thể đãđược ghi nhận trong Công ước Luật biển năm 1982.

Theo Tiếnsĩ Nguyễn Toàn Thắng

Vnxpress



Gửi bài tâm sự

File đính kèm
Hình ảnh
Words
  • Bạn đọc gửi câu chuyện thật của bản thân hoặc người mình biết nếu được cho phép, không sáng tác hoặc lấy từ nguồn khác và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về bản quyền của mình.
  • Nội dung về các vấn đề gia đình: vợ chồng, con cái, mẹ chồng-nàng dâu... TTOL bảo mật thông tin, biên tập nội dung nếu cần.
  • Bạn được: độc giả hoặc chuyên gia lắng nghe, tư vấn, tháo gỡ.
  • Mục này không có nhuận bút.