Chính sách tỷ giá: Tâm điểm vĩ mô 2010

Năm 2009 có thể coi lànăm “tiền tệ” tại Việt Nam. Tỷ giá USDVND tăng mạnh, nhập siêu cao, lạmphát đứng trước áp lực tăng trở lại vào năm 2010, khan hiếm cục bộ USD,giá vàng sốt nóng, lãi suất ngân hàng lên kịch trần...

Năm 2009 có thể coi là năm“tiền tệ” tại Việt Nam. Tỷ giá USD/VND tăng mạnh, nhập siêu cao, lạm phát đứngtrước áp lực tăng trở lại vào năm 2010, khan hiếm cục bộ USD, giá vàng sốt nóng,lãi suất ngân hàng lên kịch trần...

Những hiện tượng này nói lên điềugì? Liệu các hiện tượng trên có lặp lại trong năm 2010? Các cơ quan quản lý cầnlưu tâm gì trong chính sách tiền tệ trong năm 2010?

Tỷ giá chính thức giữa USD và VNDtrong năm 2009 đã trải qua hai lần điều chỉnh, một lần vào tháng 3 (+2%) do tăngbiên độ giao dịch từ 3% lên 5% và lần gần nhất là vào tháng 11 (+3,4%).

Mặc dù sau mỗi lần điều chỉnh, tỷgiá chính thức đều lên kịch trần nhưng tỷ giá trên thị trường không chính thức(tỷ giá thị trường tự do) vẫn luôn nằm ngoài biên độ cho phép của Ngân hàng Nhànước.

Trên thực tế, điều này đã xảy ratừ đầu năm tới nay, cho thấy thị trường ngoại hối luôn căng thẳng.

Nguyên nhân của tình trạngcăng thẳng tỷ giá

VND đã chịu sức ép giảm giá sovới USD trong một thời gian dài. So với đầu năm 2007, VND đã tăng giá khoảng 20%so với USD tính theo tỷ giá hiệu dụng thực, trong đó nguyên nhân chính là do lạmphát (đo bằng CPI) ở Việt Nam trong hai năm 2007 và 2008 rất cao, lần lượt là12,7% và 20%.

Đáng lưu ý là trong năm 2009, mặcdù CPI ở mức thấp (6,52%) nhưng sức ép giảm giá VND vẫn được duy trì, lần này làdo thâm hụt cán cân thanh toán. Nhìn vào số liệu, có thể thấy cán cân thanh toáncủa Việt Nam đã thặng dư lớn trong năm 2007 (+10,2 tỷ USD), tuy nhiên mức thặngdư này đã giảm mạnh trong năm 2008 (chỉ còn + 0,5 tỷ USD), và chuyển sang thâmhụt (-5,7 tỷ USD) trong ba quý đầu năm 2009.

Câu hỏi cần được trả lời là nhữngnguyên nhân nào làm cho tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán ngày một trở nêntrầm trọng?

Đầu tiên, trạng thái nhập siêunhẹ trong quý 1/2009 đã chuyển thành nhập siêu nặng trong quý 2 và quý 3 khi cácbiện pháp kích thích kinh tế được Chính phủ triển khai.

Thực ra nguy cơ nhập siêu đã đượccảnh báo từ trước khi thực hiện chính sách kích thích, lý do là vì cả hoạt độngsản xuất và tiêu dùng của Việt Nam đều phụ thuộc rất nhiều vào nhập khẩu, thêmvào đó VND lại bị định giá cao so với USD nên hệ quả tất yếu (mặc dù không mongmuốn) của những biện pháp kích thích tiền tệ và ngân sách là gia tăng nhập khẩu.

Trong khi nhập khẩu tăng vọt từmức trung bình 3,9 tỷ USD/tháng trong quý I lên 6,2 tỷ USD/tháng trong quý 3 thìxuất khẩu, kiều hối và các khoản mục khác lại giảm khiến cán cân tài khoản vãnglai chuyển từ thặng dư nhẹ (+0,12 tỷ USD) trong quý I sang thâm hụt nặng tronghai quý tiếp theo (lần lượt là -2,4 và -3,5 tỷ USD).

Chính sách tỷ giá: Tâm điểm vĩ mô 2010

VND đã chịu sức ép giảm giá so với USD trong một thời gian dài

Từ số liệu về cán cân thanh toán,có thế thấy rằng thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai có thể được bù đắp gần nhưhoàn toàn bởi thặng dư trong nguồn vốn chính thức và tư nhân (bao gồm FDI, FPIvà tín dụng thương mại). Điều này cũng có nghĩa là thâm hụt cán cân thanh toáncủa Việt Nam là do phần “không cơ bản” trong cán cân tài khoản tài chính gây ra.

Vấn đề nằm ở chỗ trong phần“không cơ bản” này thì “sai số và thiếu sót” lại quá lớn, khiến việc giải thíchtình trạng thâm hụt của cán cân thanh toán trở nên khó khăn. Một giả thuyết khảdĩ lý giải cho tình trạng này là do sự kết hợp giữa chính sách hỗ trợ lãi suất4% của Chính phủ và kỳ vọng của thị trường.

Khi doanh nghiệp được hỗ trợ lãisuất 4% thì giá vốn bằng VND đã giảm một cách đáng kể so với USD, khiến cácdoanh nghiệp thỏa mãn phần lớn nhu cầu vốn lưu động ngắn hạn bằng việc đi vayVND từ các ngân hàng thương mại.

Bên cạnh đó, với lãi suất USD vàvàng không thấp, cộng thêm với kỳ vọng giảm giá VND, tình trạng căng thẳng trênthị trường ngoại hối, và việc giá vàng liên tục leo thang khiến các doanh nghiệpcàng có thêm động cơ để găm giữ USD và vàng.

Nói cách khác, chính sách của nhànước cùng với tâm lý của thị trường làm doanh nghiệp và hộ gia đình chuyển danhmục tiền tệ từ VND sang USD và vàng, được thể hiện rõ qua trạng thái nắm giữ VNDgiảm và USD tăng trong hệ thống ngân hàng thương mại.

Hệ quả của chính sách tỷ giávà phản ứng

Chính sách tỷ giá trong thời gianqua đã dẫn đến một số hệ lụy quan trọng.

Thứ nhất, việc định giá VND caoso với USD trong một thời gian dài đã góp phần làm giảm năng lực cạnh tranh củahàng xuất khẩu, đồng thời khuyến khích nhập khẩu.

Điều này được chứng minh bằng mộtthực tế là nhập siêu của Việt Nam tăng nhanh liên tục trong mấy năm trở lại đây,từ 2,8 tỷ USD trong năm 2006 lên 8,2 tỷ USD năm 2007 và 17,5 tỷ USD trong năm2008. Dự kiến thâm hụt thương mại của Việt Nam trong năm 2009 cũng sẽ vào khoảng12-13 tỷ USD.

Thứ hai, nhập siêu tăng nhanh trởlại trong khi các nguồn thu ngoại tệ chính như xuất khẩu, đầu tư nước ngoài,kiều hối và du lịch đều giảm sút mạnh so với năm 2008; và cùng với việc doanhnghiệp và người dân chuyển sang nắm USD và vàng đã làm cho cán cân thanh toáncủa Việt Nam thâm hụt nặng.

Điều này một mặt khiến dự trữngoại hối của Việt Nam giảm một cách tương ứng (từ khoảng 23 tỷ USD vào cuối năm2008 xuống còn hơn 17 tỷ USD vào quý 3/2009), mặt khác khiến áp lực giảm giá VNDtiếp tục được duy trì.

Trong bối cảnh này, chính sách tiền tệ nói riêngvà chính sách vĩ mô nói chung cần hết sức thậntrọng. Chính sách cần thiết trong giai đoạn sắptới là thắt chặt chính sách tiền tệ. Một sốchính sách gần đây của Ngân hàng Nhà nước (giảmgiá VND, tăng lãi suất qua đêm liên ngân hàng vàlãi suất cơ bản) vì vậy là một sự chuyển hướngđúng đắn.

Việc chấm dứt hỗ trợ lãi suất 4%cũng là một chính sách hợp lý vì bên cạnh tác động thắt chặt tín dụng, nó cònkhuyến khích các doanh nghiệp có USD chuyển một phần dự trữ USD sang VND để đápứng các nhu cầu vốn lưu động, nhờ đó giảm áp lực cho thị trường ngoại hối.

Bên cạnh đó, việc tác động tới kỳvọng của thị trường thông qua từng bước điều chỉnh tỷ giá USD/VND sẽ đóng vaitrò hết sức quan trọng trong việc cân đối lại cấu trúc danh mục nắm giữ tiền củangười dân và doanh nghiệp.

Cuối cùng, việc lấy lại niềm tincho Ngân hàng Nhà nước, và nhờ đó lấy lại hiệu lực cho chính sách vĩ mô củachính phủ, là điều mà chính phủ phải đạt được để có thể đưa nền kinh tế vượt quanhững thách thức hiện nay.

Để làm được điều này, một thái độthực sự cầu thị, một hệ thống chính sách đúng đắn, nhất quán và một cơ chế giaotiếp thông tin chính xác, kịp thời với người dân, với thị trường là những điềukiện tiên quyết.

Theo TS. Vũ Thành Tự Anh
Chính sách tỷ giá: Tâm điểm vĩ mô 2010



Gửi bài tâm sự

File đính kèm
Hình ảnh
Words
  • Bạn đọc gửi câu chuyện thật của bản thân hoặc người mình biết nếu được cho phép, không sáng tác hoặc lấy từ nguồn khác và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về bản quyền của mình.
  • Nội dung về các vấn đề gia đình: vợ chồng, con cái, mẹ chồng-nàng dâu... TTOL bảo mật thông tin, biên tập nội dung nếu cần.
  • Bạn được: độc giả hoặc chuyên gia lắng nghe, tư vấn, tháo gỡ.
  • Mục này không có nhuận bút.