|
Tổng thống Mỹ Barack Obama tham gia cuộc bầu cử sớm tại Illinois hôm 20/10. Ảnh: Reuters |
Khác biệt giữa bầu cử Tổng thống và bầu cử giữa kì
Ngày
thứ Ba tức 4/11/2014 vừa qua, là ngày diễn ra cuộc bầu cử giữa kỳ tại
Mỹ. Cứ hai năm một lần và vào các năm chẵn là cả nước Mỹ lại sôi động
bước vào “Mùa bầu cử”.
Theo luật Mỹ, ngày bầu cử được ấn định là ngày Thứ 3, nhưng
phải sau ngày Thứ 2 đầu tiên của tháng 11 (nếu ngày Thứ 3 mà rơi vào
mùng 1/11 thì không được tính). Theo đó, ngày bầu cử nếu được tổ chức
sớm nhất thì cũng phải là ngày 2/11 và muộn nhất là ngày 8/11.
Thực tế luật quy định bầu cử thống nhất cả nước vào ngày Thứ
ba trong tháng 11 như nêu ở trên được Quốc hội Mỹ thông qua năm 1845.
Còn trước đó thì Luật cũ (thông qua năm 1792) quy định các bang tùy điều
kiện của mình linh hoạt tổ chức bỏ phiếu trong khoảng thời gian 34 ngày
trước ngày 1/12.
Có nhiều cách lý giải tại sao Quốc Hội Mỹ lại chọn bỏ phiếu
chung vào ngày Thứ ba. Đó là, thời gian đó nằm trong thời gian 34 ngày
của luật cũ và nếu tổ chức ngày bầu cử chung thì sẽ tạo một sân chơi
“công bằng”, giảm thiểu khả năng một ứng cử viên Tổng thống thắng điểm
tại một số bang bầu cử sớm nhất, để rồi giành được lợi thế ở các bang
khác bầu cử muộn hơn.
Thêm nữa, đầu tháng 11 hàng năm không quá
lạnh và nông dân vừa kết thúc vụ mùa (vào thời kỳ này nước Mỹ là nước
nông nghiệp và dân chủ yếu sống nhờ nghề nông). Nếu tổ chức vào ngày thứ
4 trong tuần cũng không tiện do nhiều nơi nông dân chọn ngày thứ tư là
ngày họp chợ. Và nếu chuyển dịch ngày bầu cử về phía cuối tuần lại vướng
vào ngày nghỉ lễ tôn giáo.
Năm bầu cử Tổng thống khác cơ bản năm bầu cử giữa
kỳ ở chỗ là có thêm lá phiều bầu Tổng thống và Phó Tổng thống, còn danh
sách bầu các chức danh khác cơ bản giữ nguyên. Trong ngày bầu cử giữa
kỳ, cử tri trên khắp nước Mỹ bầu một danh sách rất dài, với một số ghế
chủ chốt gồm:
Thứ nhất, 1/3 tổng số Thượng nghị sĩ liên bang (33 hoặc 34
người trên tổng số 100 Thượng nghị sĩ do nhiệm kỳ của các thượng nghị sĩ
là 6 năm, nhưng mỗi kỳ bầu cử 2 năm 1 lần nên bầu lại 1/3 để giữ tính
liên tục).
Hai là, toàn bộ 435 Hạ nghị sĩ Liên bang và 6 nghị sĩ (không
có quyền bỏ phiếu trong các vấn đề mang tính “quyết định”) đại diện cho
Thủ đô Washington DC và 5 vùng lãnh thổ chưa hợp nhất (gồm Guam, Puerto
Rico, American Samoa, Bắc Mariana, Quần đảo Virgin).
Tiếp đến là 34 trên tổng số 50 Thống đốc bang (nhiệm kỳ 4
năm) cộng với Thống đốc 2 bang là Vermont và New Hampshire (có nhiệm kỳ 2
năm), tổng cộng 36 Thống đốc bang. Trong năm bầu cử Tổng thống, cử tri
“chỉ” bầu 16 ghế Thống đốc bang mà thôi (14 ghế Thống đốc bang cộng với 2
ghế của Vermont và New Hampshire).
Thứ nữa, Nghị viện các bang (cũng tổ chức thành lưỡng viện –
Bicametal Body – là Thượng viện bang và Hạ nghị viên bang, tuy nhiên số
lượng thành viên thượng viện và hạ viện mỗi bang lại một khác). Đáng chú
ý là chỉ duy nhất 1 bang là bang Nebraska trong tổng số 50 bang tổ chức
nghị viện theo hình thức “Nhất viện” (Unicameral Body).
Cuối cùng là chức Thị trưởng, Hội đồng thành phố, thị trấn…
Hệ thống bầu cử tinh vi nhất thế giới
Có thể nói hệ thống tổ chức chính quyền liên bang, bang và
cách thức bầu các chức danh nắm những vị trí trên ở Mỹ là một trong
những hệ thống phức tạp và tinh vi nhất trên thế giới vì phải tính đến
sự cân bằng của tất rất nhiều yếu tố.
|
Cử tri tại Charlotte, North Carolina. Ảnh: Reuters |
Thứ nhất, nguyên tắc bình đẳng giữa các bang.
Quá
trình đàm phán để hình thành nhà nước Liên bang hợp chủng quốc Hoa Kỳ
mà ban đầu chỉ có 13 bang (thực chất là 13 quốc gia) là sự mặc cả, thỏa
hiệp. Họ thỏa hiệp về thượng viện, nhất trí rằng đây là thiết chế lập
pháp quan trọng nhất, quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước và
tại đó các bang lớn, bé đều có đại diện như nhau là 2 Thượng nghị sĩ.
Chẳng hạn bang Delaware chỉ có 900.000 dân nhưng cũng có 2 thượng nghị
sĩ như bang đông dân nhất là California với 38 triệu người.
Thứ hai, nguyên tắc phổ thông đầu phiếu và mọi người bình đẳng như nhau.
Tổng số 435 Nghị sĩ liên bang Mỹ là không đổi, nhưng dân số
các bang có thể thay đổi hàng năm do phát triển kinh tế, thay đổi trong
môi trường, giáo dục và nhu cầu di chuyển của người dân để tìm kiếm công
ăn việc làm, tìm nơi định cư mới. Do đó cứ 10 năm 1 lần, vào các năm
chẵn đầu các thập kỷ (ví dụ 1990, 2000, 2010), nước Mỹ tổ chức các cuộc
điều tra dân số toàn quốc với nhiều câu hỏi để sử dụng cho nhiều mục
đích khác nhau.
Trên cơ sở bản đồ dân số thay đổi sau một thập
kỷ, “bản đồ” bầu cử cũng được vẽ lại theo sự thay đổi dân số và số lượng
nghị sĩ của mỗi bang có thể tăng hay giảm tùy thuộc số lượng dân cư tại
một bang vào thời điểm điêu tra dân số. Các bang có dân số đông và tăng
nhanh và nhờ đó cũng có số lượng dân biểu lớn trong Hạ viện là
California, Texas, Florida.
Thứ ba, “Người chiến thắng được tất cả”.
Do tổ chức nhà nước theo hình thức liên bang, nên dân Mỹ tuy
mang tiếng bầu cử trực tiếp Tổng thống nhưng lại không bầu trực tiếp, mà
bầu gián tiếp theo tổng số ghế mà các bang có đại diện tại Quốc hội
Liên bang gồm 100 phiếu đại diện các Thượng nghị sĩ, 435 phiếu đại diện
các Hạ nghị sĩ và 3 phiếu đại cử tri của Thủ đô Washington DC (tổng cộng
538 phiếu Đại cử tri) và người đắc cử Tổng thống phải giành được ít
nhất 270 phiếu Đại cử tri.
Nếu ứng cử viên Tổng thống thắng tại bang nào, thì coi như
nhận được phiếu đại cử tri của toàn bộ bang đó. Từ đây xảy ra nhiều
trường hợp.
Trường hợp 1, ứng cử viên thắng tại nhiều bang hơn chưa chắc đã đảm bảo thắng cuộc.
Trường hợp 2, ứng cử viên nhận được số phiếu bỏ cao hơn của
cử tri chưa chắc đã thắng (tức thắng qua phổ thông đầu phiếu, như trường
hợp Phó Tổng thống Al Gore thắng Thống đốc Bang Texas George Bush trong
cuộc bầu cử Tổng thống tháng 11/2000, nhưng lại thua tại Bang quan
trọng là Florida và do đó thua phiếu Đại cử tri). Điều quan trọng đối
với bất kỳ ứng cử viên Tổng thống nào là tìm mọi cách thắng ở các bang
đông dân, có nhiều phiếu Đại cử tri.
Do một số bang ở Mỹ có truyền thống bỏ cho Cộng hòa (như
Texas, Georgia), và một số bang có truyền thống bỏ cho Dân chủ (như
California, New York), và có đến 80% các cử tri có sẵn “dòng máu cộng
hòa” hay “dòng máu dân chủ” chạy trong cơ thể, bất kể đảng của họ xấu
tốt ra sao thì họ vẫn luôn “trung thành” với lý tưởng mà mình đã chọn và
bỏ phiếu cho “đảng của mình”, do đó các cuộc bầu cử trên thực tế là
nhắm vào các “Swing states” (bang giao động) hay “Swing voters” (các cử
tri giao động) hoặc những cử tri vẫn còn lưỡng lự, chưa quyết định
(undecided voters).
Sự phát triển dân chủ có tiệm tiến
Tiến trình bầu cử ở Mỹ cũng là một sự phát triển dân chủ có
tiệm tiến, chứ không phải bỗng chốc dân Mỹ được “hưởng” toàn bộ quyền
bầu cử, ứng cử như hiện nay. Đã có nhiều lập luận đưa ra ngay từ khi lập
quốc là các quyền chính trị sẽ được mở rộng cùng với các tiến bộ kinh
tế, xã hội của các nhóm cử tri và của nước Mỹ.
Đó là, vào cuối thế kỷ XVIII cho đến tận đầu thế kỷ XX (năm
1920) phụ nữ Mỹ (cũng như phụ nữ hầu hết các nước khác) không có quyền
đi bỏ phiếu chọn người đại diện cho mình.
Trước đó, rất nhiều bang quy định chỉ có những người đàn ông
da trắng (Caucasian men), có học vấn nhất định (hết tiểu học), có tài
sản (hầu hết các bang quy định là 50 mẫu Anh đất trở lên) hoặc có đóng
thuế thu nhập thì mới được quyền đi bỏ phiếu. Lập luận của các nhà lập
pháp là, nếu các cử tri mù chữ hoặc học thức thấp mà đi bầu thì họ không
thế nhận thức được cái đúng, cái sai và sẽ bị “mua phiếu”, làm hỏng hệ
thống chính trị. Ngoài ra, đóng thuế được xác định là một tiêu chuẩn vì
nếu anh không đóng thuế thì có nghĩa anh chẳng có đóng góp, có nghĩa vụ
gì với đất nước, nên không thể có “quyền lợi” và “khả năng” góp ý vào
việc hoàn thiện thể chế.
Người nô lệ thì tuyệt nhiên bị cấm tiệt việc bỏ phiếu vì họ
không biết chữ lẫn không có thu nhập. Tuy nhiên, sau cuộc nội chiến
Bắc-Nam 4/1861-5/1865, thái độ của một số bang miền Nam đối với người da
đen đã có sự cởi mở hơn, mặc dù sự kỳ thị đối với người da đen ở miền
Nam vẫn rất mạnh. Tháng 2/1870 Hiram Rhodes Revels trở thành Thượng nghị
sĩ da đen đầu tiên được bầu và đại diện cho bang miền Nam Mississippi
tại Thượng viện Liên bang Mỹ. Còn Barack Obama, hiện là Tổng thống Mỹ,
mới là Thượng nghị sĩ da đen thứ 5 (con số hiện nay là 9) trong lịch sử
nước Mỹ.
Tuy nhiên, phải đến ngày 6/8/1965 khi Tổng thống Mỹ Lyndon
Johnson ký Đạo luật về Quyền bầu cử, trong đó cấm tuyệt đối việc ngăn
chặn, tạo các rào cản gây cản trở việc bỏ phiếu của các sắc dân thiểu
số, thì từ đó trở đi các sắc dân thiểu số mới được hưởng các quyền bỏ
phiếu đầy đủ như của người da trắng.
Gọi là “bỏ phiếu” nhưng
trên thực tế người Mỹ “bấm nút” lựa chọn người đại diện của mình. Điều
này đã được “luật hóa” sau kết quả bầu cử giữa ứng cử viên Al Gore và
ứng cử viên George Bush trong cuộc bầu cử Tổng thống đầy tranh cãi tháng
11/2000.