Diễn biến tỷ giá, nhìn từ “lời cảnh báo tháng 7”

Có thể đó là diễn biến nằm trong tầm kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước, nhưng điều đáng nói là diễn biến này phần nào chịu ảnh hưởng từ một lời cảnh báo chưa trọn vẹn. “Lời cảnh báo tháng 7” Nếu nhìn vào giá mỗi USD bán ra ngày 78 ở “chợ” Hà Trung hay Trần Nhân Tông (Hà Nội) với mức 19.230 VNDUSD hoặc giá niêm yết ngày 68 của Vietcombank là 19

Cán cân thanh toán tổng thểkhông xấu hơn trước, nhưng một tuần nay, giá USD thị trường tự do vẫn cao hơnngân hàng cả trăm điểm.

Có thể đó là diễn biến nằm trong tầm kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước, nhưngđiều đáng nói là diễn biến này phần nào chịu ảnh hưởng từ một lời cảnh báo chưatrọn vẹn.

“Lời cảnh báo tháng 7”

Nếu nhìn vào giá mỗi USD bán ra ngày 7/8 ở “chợ” Hà Trung hay Trần Nhân Tông (HàNội) với mức 19.230 VND/USD hoặc giá niêm yết ngày 6/8 của Vietcombank là 19.100VND/USD so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng là 18.544 VND/USD, hẳn ai cũngnghĩ nguồn cung USD trên thị trường có vấn đề thì mới như vậy. 

Nhưng khi hỏi Phòng Kinh doanh ngoại tệ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam(BIDV), họ vẫn bình thản: so với tháng 6/2010 và bình quân 6 tháng đầu năm,lượng mua ngoại tệ của BIDV trong tháng 7 vẫn tăng trên 10%. 

Lãnh đạo phòng này đánh giá: nhìn chung, cầu USD có tăng nhưng chưa rõ nét.Những nhu cầu lớn về USD hiện vẫn trong giai đoạn chuẩn bị, chứ chưa hiện thựchóa và ngân hàng đã có phương án chuẩn bị nguồn cung. 

Theo quy luật “cung cầu và giá cả”, một lý do chính để giá USD tăng là nguồncung bớt trù phú. Nhưng nay, các ngân hàng không kêu khó mua USD thì cớ sao giáUSD lại tăng như trên, sau 3 tháng ròng (4, 5, 6) chỉ loanh quanh mốc 19.000 VND/USD?

Mang thực tế này hỏi tổng giám đốc một ngân hàng có doanh số mua/bán ngoại tệhàng đầu trong hệ thống, ông phân tích: đầu năm, giá USD tự do khoảng 19.200 VNDnhưng trong các tháng 2,3,4/2010, Ngân hàng Nhà nước có chủ trương cho phép nhàxuất khẩu vay ngoại tệ, bán ngoại tệ đó lấy VND. Lúc đó, họ chỉ phải trả một mứclãi suất USD khá thấp từ 4% - 4,5%/năm, trong khi lãi suất VND cao hơn khoảng5%. Nhờ đó, thị trường ngoại hối được bổ sung một nguồn cung ngoại tệ tương đốilớn.  

Cùng đó, nhà nhập khẩu cũng không vay tiền đồng mua ngoại tệ như trước mà vayngoại tệ và làm cho sức cầu ngoại tệ trên thị trường giảm xuống. Hai lý do này,giải thích vì sao tỷ giá trong các tháng 4, 5, 6 bị dìm xuống. 

Đến đây, chuyện tỷ giá tự do tăng có vẻ như lại bắt nguồn từ con số tăng trưởngdư nợ tín dụng ngoại tệ 6 tháng đầu năm so với cùng kỳ lên tới 24% - một mứctăng khá nóng. Giữa lúc đó, một số ngân hàng không thực hiện tốt cân đối giữachiều huy động và cho vay nên đầu tháng 7/2010, Ngân hàng Nhà nước ra phát đicảnh báo tình hình cho vay ngoại tệ quá mức, với mong muốn các ngân hàng thươngmại phải cân đối tốt lượng ngoại tệ huy động với cho vay để đảm bảo an toàntrong thanh toán.

Khi cảnh báo loan đi, các ngân hàng thương mại thực hiện nghiêm túc, nhưng phíasau sự “mẫn cán” này, một mối lo rủi ro tỷ giá đã hiện ra từ con số dư nợ ngoạitệ. Vì sao vậy?

Diễn biến tỷ giá, nhìn từ “lời cảnh báo tháng 7”
Ngân hàng Nhà nước có thể cung cấp những thông tin có liên quan đến thị trường để tất cả phần tử tham gia thị trường có một tư duy mạch lạc, rõ ràng trước tác động của các quy luật khách quan (Ảnh: AP)

Thông thường, đối tượng vay ngoại tệ có hai nhóm chính là nhập khẩu và xuất khẩu.Những nhà nhập khẩu khi vay ngoại tệ, lẽ ra ngày hôm nay phải thanh toán một L/Cthì thay vì mua ngoại tệ, nhà nhập khẩu lại vay ngoại tệ để thanh toán, giả địnhthời hạn vay là 3 tháng thì cầu ngoại tệ trả nợ ngân hàng của nhà nhập khẩu trênthay vì bị áp lực tại ngày hôm nay đã bị đẩy lùi lại để hiện lên 3 tháng sau đó.

Còn đối với nhà xuất khẩu, nếu dòng ngoại tệ của họ trở về vào 3 tháng tới thìngày hôm nay họ vay ngoại tệ, bán lấy VND thu mua hàng hóa trước và đợi 3 thángtới khi ngoại tệ về trả nợ ngân hàng. Như vậy, dư nợ ngoại tệ tác động lên cảhai yếu tố cung và cầu của tỷ giá theo hai xu hướng bất lợi: tăng cung hiện tại- giảm cung tương lai; giảm cầu hiện tại - tăng cầu tương lai. Khi cả cung vàcầu đều không thuận thì tỷ giá căng thẳng thật dễ hiểu.

Đi tìm “vùng tỷ giá mục tiêu”

Trở lại câu chuyện “lời cảnh báo tháng 7”, vị tổng giám đốc ngân hàng nói trêncho rằng, khi thông điệp được phát đi, thị trường hiểu rằng, tại thời điểm đó sẽxuất hiện một “cầu mới”. 

Yếu tố “cầu mới” này nằm trong xu hướng bất lợi như phân tích ở trên và vì thế,đã nảy sinh hành vi vừa găm giữ, vừa mua vào và không hoặc không thể tiếp tụcvay ngoại tệ ngân hàng, làm cho ngoại tệ từ kênh huy động không thể chuyển sangkênh kinh doanh. 

Lẽ ra, Ngân hàng Nhà nước đã có thể làm tốt thêm so với những gì đã cảnh báo.Bởi lẽ, 6 tháng đầu năm, dư nợ ngoại tệ tăng tới 24%, với giả định số tuyệt đốilà 2 tỷ USD thì không có nghĩa ngần ấy dư nợ đến hạn cùng một thời điểm mà mangtính chất gối đầu lên nhau; chưa kể, trong thời gian còn lại của năm, Ngân hàngNhà nước cũng không công bố cụ thể con số nợ ngoại tệ đến hạn trả nợ từng thờiđiểm là bao nhiêu.  

Cuối tháng 7 vừa qua, Vụ trưởng Vụ Dự báo - Thống kê tiền tệ (Ngân hàng Nhà nước)có công bố một bài viết với các chi tiết thông tin về cán cân thanh toán tổngthể, cân đối vĩ mô… nhưng đó chỉ là những con số của 6 tháng trước và không kèmước đoán số liệu thời gian còn lại của năm. 

Diễn biến tỷ giá, nhìn từ “lời cảnh báo tháng 7”

Đối với đợt tăng tỷ giá này, rất có thể Ngân hàng Nhà nước đã xem xét và chỉ coiđó là “bẫy tăng”, không phải là tăng thật; đồng thời chọn một thái độ ứng xử làbình thản chờ đợi thị trường tự ổn định. Nhưng với vai trò dẫn dắt thị trường,đồng thời là người mua/bán cuối cùng trên thị trường, ngần ấy liệu đã đủ?

Có người kể chuyện vui: một ông bố nói với con: “Đêm khuya, các con đừng rađường, có thể có ma. Nhưng, bố nghĩ là không có ma, còn nếu có, bố sẽ ứng cứukịp thời”. Ngay lập tức, đứa bé rỉ tai cho các bạn và tất cả đều ở nhà vào banđêm, mà không kèm theo nỗi sợ hãi nào.

Từ góc nhìn của người viết, đối với “lời cảnh báo tháng 7”, Ngân hàng Nhà nướcmới chỉ đạt mục đích “phanh” lại tín dụng ngoại tệ nhằm đảm bảo an toàn thanhtoán, và vì không làm gì hơn thế, nên đã vô tình gửi theo một “bóng ma” rủi rotỷ giá. Do chưa bao giờ Ngân hàng Nhà nước tuyên bố: nếu tỷ giá tăng ở mức nàymức kia thì sẽ can thiệp, nên hành vi thị trường vừa không cảm nhận được “vùngtỷ giá mục tiêu” của Ngân hàng Nhà nước để hướng hành vi của mình vào đó, vừa bịnỗi lo rủi ro tỷ giá.
 
Vậy, “vùng tỷ giá mục tiêu” là gì? Một chuyên gia ngân hàng phân tích: “vùng tỷgiá mục tiêu” của VND chính là xác định sự tăng/giảm giá trị  đồng nội tệ trongmối tương tác, quan hệ gần gũi với các ngoại tệ khác như USD, Nhân dân tệ, YênNhật, Bath (Thái), Ringit Malaysia, Đô la Singapore, Đô la Hồng Kông… dưới gócđộ thương mại, đầu tư, vay nợ quốc gia, lạm phát… để từ đó hình thành nên “vùngtỷ giá mục tiêu” ở mức tối ưu nhất. 

Ngân hàng Nhà nước có thể lượng hóa được “vùng tỷ giá mục tiêu” nhưng không cónghĩa phải công bố các con số cụ thể đó ra thị trường mà chỉ hành động bằng cáchtạo cung, tạo cầu; phát tín hiệu ra thị trường rằng: trong thời điểm hiện nay,nếu cầm nắm USD với lãi suất thấp có thể được bù đắp với giả định giá USD tăngnhưng cũng phải lưu ý, người nào bán đồng USD để nắm giữ VND có lãi suất cao thìcó thể trong tương lai, có thể phải dùng nhiều VND để mua một USD. 

Hay nói cách khác, Ngân hàng Nhà nước có thể cung cấp những thông tin có liênquan đến thị trường để tất cả phần tử tham gia thị trường có một tư duy mạch lạc,rõ ràng trước tác động của các quy luật khách quan.

Ví dụ: công bố số liệu côngkhai cán cân thanh toán, cán cân thương mại, giao dịch vốn, dự trữ ngoại hốicùng những cam kết về nguyên tắc can thiệp của một ngân hàng trung ương để bìnhổn tỷ giá ở một “vùng tỷ giá mục tiêu”... Như vậy, khi thị trường có đủ thôngtin, sẽ tự tạo ra cung, cầu phù hợp; đồng thời tránh được sự vô tình cổ xúy chohành vi đầu cơ vào đồng tiền này hay đồng tiền kia.

Theo Nguyễn Hoài
VnEconmy



Gửi bài tâm sự

File đính kèm
Hình ảnh
Words
  • Bạn đọc gửi câu chuyện thật của bản thân hoặc người mình biết nếu được cho phép, không sáng tác hoặc lấy từ nguồn khác và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về bản quyền của mình.
  • Nội dung về các vấn đề gia đình: vợ chồng, con cái, mẹ chồng-nàng dâu... TTOL bảo mật thông tin, biên tập nội dung nếu cần.
  • Bạn được: độc giả hoặc chuyên gia lắng nghe, tư vấn, tháo gỡ.
  • Mục này không có nhuận bút.