Ngân hàng: Ngoại lãi nhiều, nội lãi ít

Gần đây những chiếc máyrút tiền tự động ATM của các ngân hàng ngoại như ANZ, HSBC xuất hiệnngày càng nhiều trong khu vực trung tâm Tp.HCM.

Gần đây những chiếc máyrút tiền tự động ATM của các ngân hàng ngoại như ANZ, HSBC xuất hiệnngày càng nhiều trong khu vực trung tâm Tp.HCM. Không giống như trước,máy ATM của ngân hàng ngoại chỉ được đặt ở cạnh hội sở chính, bâygiờ họ có thể đặt ở nhiều nơi.

Ngân hàng: Ngoại lãi nhiều, nội lãi ít

Khách hàng sử dụng máy ATM của ANZ - (Ảnh: Lê Toàn)

Cùng với việc mở rộng mạnglưới, các ngân hàng 100% vốn nước ngoài dần lấn lướt các đồng nghiệpnội địa, đặc biệt trong tăng trưởng lợi nhuận, họ đang để sau lưng mộtkhoảng cách khá xa với các ngân hàng cổ phần.

Năm ngoái, theo thống kê của chi nhánh Ngân hàng Nhà nước Tp.HCM, cácngân hàng nước ngoài trên địa bàn có mức tăng trưởng lợi nhuận tới168,3% so với năm 2008, với con số tuyệt đối 3.517 tỉ đồng (1.311 tỉđồng năm 2008).

Trong khi đó tăng trưởng lợi nhuận của các ngân hàng cổ phần chỉ có20,3%, từ 4.988 tỉ đồng năm 2008 lên 5.999 tỉ đồng năm 2009.

Các ngân hàng cổ phần hối hả cho vay, hối hả nâng lãi suất huy độngđể cạnh tranh lẫn nhau và hối hả phát triển tín dụng. So với cuốinăm 2008, năm vừa qua tăng trưởng tín dụng của khối cổ phần nhảy lên59,9%, mức tăng mạnh nhất trong số các ngân hàng. Còn các ngân hàngnước ngoài vẫn “bình chân như vại” trong mảng tín dụng. Họ dường nhưkhông quan tâm lắm đến nâng dư nợ cho vay. Kết quả là tăng trưởng tíndụng của họ năm ngoái âm - 0,66%.

Vậy điều gì đã tạo nên sự bứt phá lợi nhuận của ngân hàng nướcngoài? Ở một ngân hàng nước ngoài lớn, trong cơ cấu lợi nhuận 40% làkinh doanh ngoại hối và trái phiếu; thu phí thanh toán xuất nhập khẩuvà các phí khác của khách hàng doanh nghiệp chiếm 20%; cho vay tiêudùng cá nhân cộng dịch vụ 20%, dịch vụ khác chiếm tỷ trọng còn lại.Ở một số ngân hàng nước ngoài khác, lợi nhuận từ kinh doanh ngoại tệvà ngân quỹ cũng chiếm 40% lợi nhuận.

Rõ ràng, dịch vụ ngoại hối và phí mới là nguồn lợi nhuận chínhcủa ngân hàng nước ngoài. Khi mà ngân hàng nội địa bị ràng buộc bởihàng loạt các quy định hành chính liên quan đến kinh doanh ngoại tệ,không thể lách luật, thì ngân hàng nước ngoài tỏ ra linh hoạt.

Suốt một thời gian dài họ mua bán Đô la Mỹ với doanh nghiệp thông quamột ngoại tệ thứ ba để đạt được tỷ giá mong muốn và khi Ngân hàng Nhànước cấm nghiệp vụ này, họ vẫn sử dụng ngoại tệ thứ ba thông qua mộtngân hàng thứ ba.

Thí dụ doanh nghiệp XYZ muốn mua Đô la Mỹ của họ, thì đầu tiên doanhnghiệp đó phải mua Euro của ngân hàng nội địa XYZ với một tỷ giáthỏa thuận. Họ bán Euro cho ngân hàng XYZ để XYZ bán cho doanh nghiệp.Có Euro rồi, doanh nghiệp bán lại cho họ cũng theo giá thỏa thuận vàongày hôm sau, làm sao tương ứng với sự chênh lệch của Đô la Mỹ (giữagiá niêm yết của ngân hàng và giá thị trường tự do) mà họ bán chodoanh nghiệp. Trên hợp đồng, giá mua bán Đô la vẫn tuân thủ quy địnhcủa Ngân hàng Nhà nước, nhưng trên thực tế, sau một sự lòng vòng, giáthực mua - bán đã khác nhiều.

Ngoài ra một số ngân hàng nước ngoài áp dụng phí ngoại tệ linh hoạt(flexible fees) khi doanh nghiệp chuyển khoản ra nước ngoài, mở L/C, bảolãnh… Với các công ty đa quốc gia, việc đưa ra các mức phí càng thuậnlợi hơn, nhất là khi các công ty này nhập khẩu máy móc, nguyên vậtliệu, triển khai dự án đầu tư.

Không phải ngẫu nhiên, các công ty của nước nào thì thường giao dịchvới ngân hàng của nước ấy mở ở Việt Nam. Chẳng hạn các công ty HànQuốc giao dịch với ngân hàng Hàn Quốc, Đài Loan với Đài Loan, Phápvới Pháp, Úc với Úc… Ngân hàng trong nước không thể “bắt chước” cáchkinh doanh ấy của ngân hàng nước ngoài vì nếu làm vậy có thể bịthanh tra, kiểm tra liên tục.

Tuân thủ đúng quy định, ngân hàng nội khó tìm lợi nhuận từ kinh doanhngoại hối. Một khi giá mua bán Đô la Mỹ chuyển khoản và tiền mặt luônkịch trần và bằng nhau, các ngân hàng cổ phần chỉ còn cách giớithiệu các doanh nghiệp với nhau để tự thương lượng. Hậu quả là doanhthu kinh doanh ngoại tệ năm 2009 của nhiều ngân hàng cổ phần sụt giảmmạnh, có ngân hàng thậm chí lỗ ở mảng này.

Lợi nhuận từ dịch vụ thấp, ngân hàng cổ phần lao vào tín dụng. Chovay chỉ cung cấp 20% cơ cấu lợi nhuận của ngân hàng nước ngoài, nhưnglại chiếm đến 75-80% lợi nhuận của ngân hàng nội. Sự lệch pha đó dẫnđến sự lệch pha về chất lượng tín dụng của hai khối.

Năm 2009 tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng nước ngoài ở Tp.HCM chỉ chiếm0,63% tổng dư nợ. Tuy nhiên với ngân hàng cổ phần, tỷ lệ này là 1,39%,gấp hơn hai lần tỷ lệ của ngân hàng nước ngoài. Còn so với ngân hàngquốc doanh, nơi nợ xấu chiếm 2,02% tổng dư nợ, thì tỷ lệ nợ xấu củanước ngoài chỉ bằng một phần ba.

Cùng một môi trường kinh doanh như nhau, cùng chịu ảnh hưởng của cácyếu tố kinh tế vĩ mô như nhau, vì sao ngân hàng ngoại lãi nhiều, ngânhàng nội lãi ít? Phải chăng sự khác nhau về tốc độ tăng trưởng lợinhuận ấy chỉ thuần túy do ngân hàng nước ngoài nhiều kinh nghiệm, côngnghệ cao hay đằng sau đó còn là sự quản lý ở mức độ khác nhau đốivới tổ chức tín dụng nội và ngoại của Ngân hàng Nhà nước?

Theo Hải Long
Ngân hàng: Ngoại lãi nhiều, nội lãi ít



Gửi bài tâm sự

File đính kèm
Hình ảnh
Words
  • Bạn đọc gửi câu chuyện thật của bản thân hoặc người mình biết nếu được cho phép, không sáng tác hoặc lấy từ nguồn khác và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về bản quyền của mình.
  • Nội dung về các vấn đề gia đình: vợ chồng, con cái, mẹ chồng-nàng dâu... TTOL bảo mật thông tin, biên tập nội dung nếu cần.
  • Bạn được: độc giả hoặc chuyên gia lắng nghe, tư vấn, tháo gỡ.
  • Mục này không có nhuận bút.