Thế “tam nan” của chính sách tài chính

Trong bài viết đăng trên tờ New York Times, giáo sư kinh tế học N. Gregory Mankiw thuộc Đại học Havard, Mỹ, đã đưa ra ba mục tiêu liên quan tới nền tài chính quốc tế mà theo ông, không một quốc gia nào có thể đạt được cùng lúc cả ba mục tiêu đó. Giáo sư Mankiw đã gọi tình thế này là “trilema”, tạm dịch là “tam nan”

Giữa lúc kinh tế thế giớichật vật phục hồi khỏi khủng hoảng và suy thoái, trật tự tài chính quốc tế ngàycàng được chú ý. Trong đó, các vấn đề về tiền tệ và tỷ giá giành được sự quantâm lớn hơn cả.
Thế “tam nan” của chính sách tài chính
Nếu các nhà hoạch định chính sách chọn hai mục tiêu đầu tiên, thì logic của kinh tế học buộc họ phải từ bỏ mục tiêu thứ ba (Minh họa: NY)

Trong bài viết đăng trên tờ New York Times, giáo sư kinh tế học N. GregoryMankiw thuộc Đại học Havard, Mỹ, đã đưa ra ba mục tiêu liên quan tới nền tàichính quốc tế mà theo ông, không một quốc gia nào có thể đạt được cùng lúc cả bamục tiêu đó. Giáo sư Mankiw đã gọi tình thế này là “trilema”, tạm dịch là “tamnan”.

Nhiều học giả và các chính trị gia, bao gồm cả Tổng thống Mỹ Barack Obama, đãcho rằng, đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc bị định giá thấp hơn giá trị thực vàcản trở sự phục hồi của kinh tế thế giới. Những rắc rối về nợ công ở Hy Lạp đãkhiến nhiều người đặt câu hỏi liệu đồng Euro có phải là một thử nghiệm thất bạivà liệu các nước châu Âu có khá hơn nếu họ vẫn sử dụng đồng tiền riêng như trướckia.

Giáo sư Mankiw cho rằng, khi đề cập tới những vấn đề này, điểm khởi phát lànhững gì mà giới chuyên gia kinh tế gọi là thế “tam nan” nền tảng của tài chínhquốc tế. Theo từ điển tiếng Anh của Oxford, “tam nan” là từ miêu tả tình huốngtrong đó một người phải đối diện cùng lúc với 3 lựa chọn, nhưng lựa chọn nàocũng đi kèm với những vấn đề không thể tránh khỏi.

Vậy “tam nan” của tài chính quốc tế là gì? Theo giáo sư Mankiw, điều này xuấtphát từ sự thật là, tại hầu hết các quốc gia, các nhà hoạch định chính sách kinhtế đều muốn đạt được ba mục tiêu dưới đây:

Mục tiêu thứ nhất là mở cửa nền kinh tế trước những dòng vốn ngoại. Sự lưu độngcủa các dòng vốn cho phép công dân của một nước đa dạng hóa tài sản của họ bằngcách đầu tư ra nước ngoài. Điều đó cũng khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoàiđem nguồn lực và kinh nghiệm của họ tới một quốc gia khác.

Mục tiêu thứ hai là sử dụng chính sách tiền tệ như một công cụ để ổn định nềnkinh tế. Ngân hàng trung ương khi đó có thể tăng cung tiền và giảm lãi suất mộtkhi tăng trưởng kinh tế suy giảm, và ngược lại, giảm tăng trưởng cung tiền vàtăng lãi suất khi kinh tế tăng trưởng nóng.

Và mục tiêu thứ ba là duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoáibiến động, nhất là khi do tác động của giới đầu cơ, có thể sẽ dẫn tới hàng loạtnhững bất ổn kinh tế trên diện rộng. Thêm vào đó, tỷ giá ổn định sẽ giúp các hộgia đình và doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc tham gia vào nền kinh tế toàncầu và lên kế hoạch cho tương lai.

Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ các quốc gia không thể cùng lúc đạt được cả ba mụctiêu. Nếu các nhà hoạch định chính sách chọn hai mục tiêu đầu tiên, thì logiccủa kinh tế học buộc họ phải từ bỏ mục tiêu thứ ba.

Ở Mỹ, Chính phủ nước này đã lựa chọn hai mục tiêu đầu tiên. Bất kỳ người Mỹ nàocũng có thể dễ dàng đầu tư ra nước ngoài, bằng cách đơn giản là góp vốn vào mộtquỹ tương hỗ quốc tế.

Bên cạnh đó, người nước ngoài cũng tự do trong việc mua cổphiếu và chứng khoán trên các sàn giao dịch của Mỹ. Ngoài ra, Cục Dự trữ Liênbang Mỹ (FED) chịu trách nhiệm thiết lập chính sách tiền tệ nhằm nỗ lực duy trìviệc làm và ổn định giá cả. Tuy nhiên, kết quả của quyết định này là sự biếnđộng của tỷ giá USD trên thị trường ngoại hối.

Trung Quốc có một cách lựa chọn khác. Ngân hàng Trung ương nước này thiết lậpchính sách tiền tệ và duy trì sự kiểm soát chặt chẽ đối với tỷ giá hối đoái củađồng Nhân dân tệ.

Tuy nhiên, để đạt được hai mục tiêu này, Trung Quốc phải kiểmsoát các dòng vốn quốc tế, bao gồm cả việc công dân Trung Quốc chuyển tài sản ranước ngoài. Nếu không có những quy định về kiểm soát dòng vốn, tiền có thể tự dochảy ra chảy vào Trung Quốc, buộc lãi suất ở nước này phải phù hợp với mức lãisuất do các ngân hàng trung ương khác thiết lập.

Phần lớn các nước châu Âu lại có cách lựa chọn khác cả Mỹ và Trung Quốc. Bằngcách sử dụng đồng Euro để thay thế các đồng tiền Franc Pháp, Mark Đức, LiraItalia, Drachma Hy Lạp…, những quốc gia này đã xóa bỏ được sự biến động tỷ giágiữa các đồng tiền nội khối. Ngoài ra, các dòng vốn cũng tự do di chuyển giữacác quốc gia. Tuy nhiên, cái giá của sự lựa chọn này là sự độc lập trong chínhsách tiền tệ quốc gia đã không còn.

Thế “tam nan” của chính sách tài chính

Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) là cơ quan thiết lập lãi suất cho toàn bộkhối Eurozone. Tuy nhiên, nếu tình hình ở một quốc gia, chẳng hạn như Hy Lạp,không giống như ở các nước khác, thì quốc gia đó cũng không có cơ hội để thựcthi một chính tiền tệ riêng nhằm giải quyết những vấn đề trong nước.

Vậy đâu là cách tốt nhất để giải quyết tình huống “tam nan” này? Nhiều nhà kinhtế học của Mỹ lập luận rằng, chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi trong đó tỷ giá docác lực lượng thị trường quyết định như của Mỹ là giải pháp phù hợp nhất.

Cáclập luận này là cơ sở cho những chỉ trích nhằm vào chính sách tỷ giá của TrungQuốc, đồng thời cũng đã dẫn tới sự hồ nghi khi châu Âu bắt đầu xây dựng đồngtiền chung vào đầu thập niên 1990. Ngày nay, những người từng hoài nghi vào đồngEuro càng cảm thấy là họ đúng khi khủng hoảng nợ công nổ ra ở Hy Lạp.

Tuy nhiên, theo giáo sư Mankiw, các chuyên gia kinh tế cần thận trọng khi đề cậptới chính sách tỷ giá, vì không dễ khẳng định như thế nào là tốt nhất đối vớichính sách này. Trên thực tế, việc nước Mỹ theo đuổi chính sách tỷ giá thả nổikhông phải đã có một lịch sử lâu dài. Từ Thế chiến thứ 2 tới đầu thập niên 1970,Mỹ đã tham gia vào hệ thống Bretton Woods trong đó tỷ giá hối đoái giữa các đồngtiền chủ chốt là cố định.

Hơn nữa, vào năm 1998, khi châu Á lâm vào khủng hoảng tài chính, Bộ trưởng BộTài chính Mỹ khi đó là Robert E. Rubin đã ca ngợi chính sách tỷ giá của TrungQuốc là “ốc đảo bình yên” trong một thế giới biến động.

Thậm chí sự thử nghiệm đồng Euro cũng một phần dựa trên mô hình Mỹ. Việc tất cả50 tiểu bang trong liên bang Mỹ đều sử dụng đồng USD là có lợi cho người dânnước này. Người châu Âu cũng đã hứng khởi khi được hưởng sự tiện lợi như vậy.

Nhưng châu Âu không giống như nước Mỹ - quốc gia có một chính phủ trung ương cókhả năng tái phân bổ các nguồn lực giữa các vùng trong trường hợp cần thiết.Quan trọng hơn, ngôn ngữ và di sản văn hóa chung của nước Mỹ cho phép lao độngcó thể tự do di chuyển giữa các vùng miền, trong khi điều này khó thực hiện ởchâu Âu. 

Giáo sư Mankiw kết luận, rõ ràng hệ thống tài chính thế giới đang đem tới chocác nhà hoạch định chính sách những sự đánh đổi không dễ dàng. Ông cho rằng,nước Mỹ không nên có thái độ cứng nhắc khi các quốc gia khác phải đối mặt vớithế “tam nan” có lựa chọn khác biệt với lựa chọn của nước Mỹ. Trong vấn đề chínhsách kinh tế cũng như nhiều vấn đề khác, sự bất đồng ý kiến giữa các quốc gia làđiều khó tránh khỏi.

Theo Kiều Oanh
VnEconomy



Gửi bài tâm sự

File đính kèm
Hình ảnh
Words
  • Bạn đọc gửi câu chuyện thật của bản thân hoặc người mình biết nếu được cho phép, không sáng tác hoặc lấy từ nguồn khác và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về bản quyền của mình.
  • Nội dung về các vấn đề gia đình: vợ chồng, con cái, mẹ chồng-nàng dâu... TTOL bảo mật thông tin, biên tập nội dung nếu cần.
  • Bạn được: độc giả hoặc chuyên gia lắng nghe, tư vấn, tháo gỡ.
  • Mục này không có nhuận bút.